Theo như kết quả những
nghiên cứu gần đây, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là con của Vũ Uy vương Trần Nhật
Duy và bà Trần Ý Ninh . Trần Nhật Duy là con trai vua Trần
Thái Tông nên Trần Quốc Toản
là cháu nội của vua Trần Thái Tông, vị vua Trần đầu tiên của nước ta.
Khi quân Mông Cổ xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất (1257-1258), Trần Nhật Duy đang làm Tổng trấn biên giới phía Bắc. Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258, vua Trần Thánh Tông cử Trần Nhật Duy và vợ là Trần Ý Ninh cùng một số tướng lĩnh sang giúp nhà Tống, vì lo rằng nếu Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống thì quân Mông Cổ sẽ kéo sang đánh Đại Việt lần nữa.
Trần Quốc Toản được mẹ sinh ra ở đất Tống vào năm 1267. Ông có nhiều bạn bè là con cháu trong hoàng tộc nhà Tống. Năm 1279, sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt hoàn toàn, một số người Tống kéo sang Đại Việt lánh nạn và giúp nhà Trần đánh giặc Mông – Nguyên. Một đội quân do hoàng tử Tống tên là Triệu Trung cầm đầu chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.
Khi quân Mông Cổ xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất (1257-1258), Trần Nhật Duy đang làm Tổng trấn biên giới phía Bắc. Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất năm 1258, vua Trần Thánh Tông cử Trần Nhật Duy và vợ là Trần Ý Ninh cùng một số tướng lĩnh sang giúp nhà Tống, vì lo rằng nếu Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống thì quân Mông Cổ sẽ kéo sang đánh Đại Việt lần nữa.
Trần Quốc Toản được mẹ sinh ra ở đất Tống vào năm 1267. Ông có nhiều bạn bè là con cháu trong hoàng tộc nhà Tống. Năm 1279, sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt hoàn toàn, một số người Tống kéo sang Đại Việt lánh nạn và giúp nhà Trần đánh giặc Mông – Nguyên. Một đội quân do hoàng tử Tống tên là Triệu Trung cầm đầu chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.
Em của hoàng tử Triệu Trung là công chúa Triêu Ngọc Hoa cùng chiến đấu trong đội quân này. Trần Quốc Toản cũng cầm đầu một đội quân khác chiến đấu dưới sự chỉ huy của tướng Trần Nhật Duật. Sau đó Trần Quốc Toản và Triệu Ngọc Hoa yêu thương nhau và hai người thành vợ chồng. Vì lấy vợ Tống, cho nên mặc dù trung nghĩa và lập được nhiều chiến công nhưng Trần Quốc Toản chỉ được phong tước hầu (Hoài Văn hầu) chứ không được phong tước vương.
Theo ghi chép của các tài
liệu lịch sử thì Hoài Văn Hầu tử trận trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ
2 năm 1285. Tuy nhiên thực tế Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản không hề tử trận.
Về việc ghi chép rằng Hoài Văn Hầu mất trong trận đánh ở sông Như
Nguyệt, có một phần nhiều là đến từ sách sử nhà Nguyên.
Nguyên Sử phần An Nam truyện có ghi chép rằng: “Quan quân
(chỉ quân Nguyên) rút đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên (tức vua Thánh tông) sai
Hoài Văn Hầu đến đánh.” “Kinh thế đại điển tư lục” ghi chép tiếp
rằng: “Thoát Hoan chạy đến sông Như nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn
Hầu đuổi theo. Giết được Hoài Văn Hầu.”
Thực tế cuốn “Kinh thế đại điển tư lục” có sự nhầm lẫn, người tử
trận là Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện chứ không phải Hoài Văn Hầu Trần Quốc
Toản. Cuốn sách này đã nhầm lẫn thay vì Hoài Nhân Vương thì lại thành Hoài Văn
Hầu.
Theo nhiều gia phả của nhà Trần ghi chép thì trận “Như Nguyệt”
chỉ có Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện tử trận, còn Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản
sau được phong Hoài Văn Vương và sống thọ đến tận 92 tuổi.
Các sách sử sau này đều căn cứ theo cuốn “Kinh thế đại điển tư
lục” nên cũng đều bị nhầm theo, chi tiết về cái chết cũng rất sơ sài.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi rất ngắn gọn: “Đến
khi Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mất, vua rất thương tiếc, đích thân viết văn tế
và gia phong tước Vương”.(6)
Trần Quốc Kiện và Trần Quốc Toản đều là bậc thiếu niên thuộc dòng
dõi hoàng thân quốc thích nhà Trần, tuổi cũng trạc nhau. Khi hội nghị Bình Than
diễn ra, cả hai đã cùng đến xin được vào dự, nhưng đều bị từ chối do còn nhỏ
tuổi.
Do cả hai người trạc tuổi nên khá thân thiết với nhau, trong cuộc
chiến chống quân Nguyên lần thứ 2, cả hai người lại cùng sát cánh chống lại
quân giặc.
Gia phả của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc có ghi chép về cái chết
của Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện. Chính Trần Ích Tắc viết rằng: “Trận
Như Nguyệt, ngày 6-5, niên hiệu Chí nguyên thứ 22, Quốc Kiện đuổi theo chú,
buông lời vô lễ. Giết Quốc Kiện.”
“Chú” ở đây chính là Trần Ích Tắc. Trong gia phả của mình, chính tay
Trần Ích Tắc cầm bút viết rõ mình đã giết Quốc Kiện. Có thể lúc đó Trần Quốc
Kiện cho quân đuổi tới, nhìn thấy Ích Tắc đã đầu hàng quân Nguyên Mông nên có
lời qua tiếng lại với chú của mình, Ích Tắc tức giận nên đã giết chết Quốc
Kiện.
Các gia phả đều chép ngày giỗ Hoài Nhân Vương Quốc Kiện là 6
tháng 5. Ngày giỗ của Hoài Văn Vương Quốc Toản là 18 tháng 9. Ngày 6 tháng 5
cũng chính là ngày xảy ra trận đánh Như Nguyệt. Vậy thì người đã tử trận là
Hoài Nhân Vương Quốc Kiện chứ không phải Hoài Văn Vương Quốc Toản.
Các gia phả của Hưng Nhượng Vương, Hưng Vũ Vương, gia phả của
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đều chép Quốc Toản giết Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi, đều
là những chiến công oai hùng lúc đó.
Những chiến công này đều diễn ra sau trận đánh Như Nguyệt. Nếu
Trần Quốc Toản thật sự tử trận vào ngày 6/5 thì làm sao có được những chiến
công oai hùng như thế sau đó.
Đặc biệt, Trần Quốc Toản
khi mới 19 tuổi đã đánh bại và giết được danh tướng thiện chiến bậc nhất của
quân Nguyên là Toa Đô tại cửa Hàm Tử. Trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ
3 năm 1288, tại trận Bạch Đằng, cũng chính Quốc Toản đã đánh danh tướng thiện chiến
khác là Ô Mã Nhi rớt xuống sông, sau đó Đỗ Hành dùng câu liêm móc lên bắt sống
Ô Mã Nhi.
Gia phả của dòng Hưng Vũ
Vương, Hưng Hiếu Vương, Nhượng Vương, Hưng Trí Vương, Hoài Văn Vương đều có bài
thơ ghi rõ những chiến công của Trần Quốc Toản như sau:
Tổ thứ ba là Hoài Văn Vương,
Trí dũng thực vô cùng.
Thời niên thiếu thống khổ,
Lao tù tại Trường Yên.
Được ban kiếm Trấn Bắc,
Chín trận phá giặc Nguyên.
Đuổi Thoát Hoan Như Nguyệt,
Hàm tử giết Toa Đô,
Bạch Đằng bắt Ô Mã,
Để đức lại vạn năm.
Trí dũng thực vô cùng.
Thời niên thiếu thống khổ,
Lao tù tại Trường Yên.
Được ban kiếm Trấn Bắc,
Chín trận phá giặc Nguyên.
Đuổi Thoát Hoan Như Nguyệt,
Hàm tử giết Toa Đô,
Bạch Đằng bắt Ô Mã,
Để đức lại vạn năm.
Bài thơ trên ghi rõ Trần Quốc Toản có “chín trận phá giặc Nguyên”, 9
trận này được nhà nghiên cứu Trần Đại Sỹ ghi chép lại từ gia phả họ Trần như
sau:
1/ Trận Đâu Đỉnh chặn đạo quân Nguyên dùng thượng đạo đánh úp Chi
lăng. Quân Nguyên do Lý Hằng, Ô Mã Nhi chỉ huy
2/ Trận đánh chặn không cho Mông Cổ chiếm Thăng Long, để quân dân
trong thành Thăng Long kịp thời di tản
3/ Trận cùng Chiêu Minh Vương cứu viện Chiêu Văn Vương ở Thanh Hóa.
4/ Trận tái chiếm Trường Yên.
5/ Trận Tây Kết oai hùng
6/ Trận tái chiếm Thăng Long trong lần chống quân Nguyên thứ 2 cùng
các tướng khác.
7/ Trận đánh bại và truy đuổi Thoát Hoan ở Như nguyệt (cùng Hưng Đạo
Vương, Hưng Ninh Vương, Hoài Nhân Vương).
8/ Trận Hàm Tử, giết Toa Đô.
9/ Trận Bạch Đằng bắt Ô Mã Nhi.
Nhưng riêng trong gia phả của Hưng Vũ Vương (con trai trưởng của
Hưng Đạo Vương) còn bổ sung thêm 4 chiến công nữa là thành 13
10/ Trợ giúp Chiêm Thành bắt gian vương Chiêm.
11/ Đánh trận Hỏa giáp, phá đạo quân Sài Thung, bắt sống được Trần
Di Ái người đã đầu hàng quân Nguyên.
12/ Cùng với Vũ Uy Vương đánh chặn Thoát Hoan ở phía Bắc.
13/ Chiếm lại thành Thăng Long trong cuộc chiến chống quân Nguyên
lần thứ 3.
Vì vậy mới có câu :
Hoài Văn thập tam chiến,
Uy vũ chấn Trung Nguyên.
Uy vũ chấn Trung Nguyên.
Cũng theo gia phả hậu duệ nhà Trần thì
Trần Quốc Toản không hề chết trận. Khi nhà Nguyên sa sút, rất nhiều cuộc khởi
nghĩa người Hán nổ ra để đánh đuổi nhà Nguyên, vợ chồng Trần Quốc Toản cùng trở
về phương Bắc khởi binh khôi phục nhà Tống.
Sau này trong cuộc khởi nghĩa lớn nhất
chống lại nhà Nguyên của Trần Hữu Lượng, có rất nhiều người là con cháu hậu duệ
của vợ chồng ông tham gia.
Cuốn gia phả của hậu duệ Trần Quốc Toản
là “Viêm phương Trần tộc Lưu phả” có ghi lại rằng: Vợ của Trần Quốc Toản là
công chúa cuối cùng của triều đại nhà Tống, tức Triệu Ngọc Hoa. Ngoài ra, gia
phả cũng nói rõ ông sống rất thọ chứ không hề tử trận.
Một cuốn sách khác là “Đông a di sự” có chi
tiết về Trần Quốc Toản trong sự kiện của Đoàn Nhữ Hài tóm lược như sau:
Tháng tư niên hiệu Hưng Long thứ 7 (1299),
nội cung nhà Trần phát hiện ra chuyện tình giữa quan Xử Mật Viện trong cung là
Đoàn Nhữ Hài cùng cung nữ Giao Châu. Theo đó cả hai bị khép vào tội chết. Tuy
nhiên nhờ có sự có mặt kịp thời của Huệ Túc Phu Nhân mà cung nữ Giao Châu được
cứu. Còn Đoàn Nhữ Hài làm Xử Mật Viện là người của họ Đông A nên giao cho Thân
Vương xử. Theo lệ nhà Trần thì các Thân Vương đều về ấp ở, mỗi tháng chỉ cần
một vị ở triều đại diện cho các Thân Vương.
Vị Thân Vương đại diện tháng 4 năm ấy lại
chính là Trần Quốc Toản.
“Đông A di sự” chép rằng:
Tháng tư đến lượt Trấn bắc đại tướng quân
Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Hầu kính cẩn thưa: “Thánh đức của Thái Tôn nhà ta
nên giữ lấy. Thần xin tác hợp cho Đoàn tiên sinh và Giao Châu”.
Như vậy nếu theo “Đông A di sự” thì cho đến
năm 1299, cách cuộc chiến chống quân Nguyên Mông cuối cùng (1287-1288) đã rất
xa, Trần Quốc Toản vẫn còn sống.
Một số nhà nghiên cứu họ Trần vẫn tin vào
cuốn “Đông A di sự” do Trần Triều Bình Chương Quốc Sư, Băng Hồ Tướng Công Trần Nguyên Đán chắp bút, bởi đây là cuốn sách do
người trong dòng tộc nhà Trần ghi chép lại chân thực chi tiết tất cả những sự
việc liên quan đến triều đại nhà Trần
Các bạn thân mến. Như vậy có thể thấy rằng Trần Quốc Toản không
hề chết trận như một số sách sử trong đó có sử nhà Nguyên đã ghi chép. Trên
thực tế ông đã sống rất thọ. Uy vũ của ông không chỉ gói gọn trong lãnh thổ Đại
Việt, mà sau này còn chấn động đến cả toàn cõi Trung Nguyên. Hy vọng các nhà
nghiên cứu hãy tiếp tục truy tìm khảo liệu để làm rõ về vấn đề lịch sử cần phải
giải đáp này.
No comments:
Post a Comment