Thursday, March 19, 2020

Muốn nhanh chóng cường thịnh người Việt cần phải đọc sách nhiều hơn nữa !!!


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến !
Nếu  đã từng đi máy bay thì các bạn hẳn sẽ bắt gặp cảnh tượng những người phương Tây cầm trên tay là những quyển sách để đọc, trong khi đó những người châu Á đa phần dùng điện thoại hoặc Ipad. Trong khi các vị khách Âu Châu đang yên tĩnh đọc sách hay làm việc thì  đa số khách châu Á đi lại mua sắm hoặc cười nói so sánh giá cả. 
Nhiều người châu Á hiện nay dường như không thể kiên nhẫn ngồi yên đọc sách. Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao người châu Á đều gọi điện thoại hoặc lướt internet chứ không thấy ai đọc sách vậy nhỉ?”. Đa phần mọi người chỉ mải mê nói chuyện, gọi điện thoại, cúi đầu đọc tin nhắn, lướt mạng xã hội hoặc chơi game.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về vấn đề này nhé ! 
Theo truyền thông, trung bình mỗi người Trung Quốc chỉ đọc 0,7 quyển sách/năm, Việt Nam 0.8 quyển, Ấn Độ 1.2 quyển, Hàn Quốc là 7 quyển. Chỉ có Nhật Bản là có thể sánh với các nước phương Tây với 40 quyển/năm, riêng người Nga là 55 quyển. Năm 2015, 44,6% người Đức đọc ít nhất một cuốn sách mỗi tuần. Con số tương tự ở các nước Bắc Âu. 
Ở các thành phố và thị trấn lớn nhỏ tại Trung Quốc, loại hình giải trí phổ biến nhất phải kể đến là quán mạt chược, quán ăn uống và tiệm internet. Bất kể trong tiệm net hay phòng vi tính của nhà trường, phần lớn sinh viên lướt mạng xã hội, chat hoặc chơi game. Số học sinh tra cứu tài liệu trên mạng rất ít ỏi. Còn các vị quản lý, ví dụ doanh nghiệp, cả ngày bận rộn ứng phó với các bản kiểm điểm, tiếp khách, ăn uống nên khi được hỏi thì họ nói chưa đọc sách kể từ lúc rời ghế nhà trường. 
Nguyên nhân không thích đọc sách, thống kê cho thấy có 3 phương diện chính.
- Một là trình độ văn hoá của người dân thấp. Tò mò chuyện người khác nhiều nên luôn cập nhật mạng xã hội và nhu cầu giao tiếp lớn, họ luôn nói nhiều khi gặp nhau, và chat cả ngày không chán. 
- Hai là từ nhỏ không được dưỡng thành thói quen tốt trong việc đọc sách. Do gia đình cha mẹ không đọc sách . Nên nhớ, tính cách một đứa trẻ hình thành chủ yếu từ gia đình. 
- Ba là “giáo dục kiểu thi cử”, khiến cho trẻ nhỏ không có thời gian và tinh lực để đọc các loại sách bên ngoài. Hình thành thói quen học xong có bằng cấp thì ngưng đọc. Đọc nếu có, chỉ để đi thi. 
Trên thế giới có hai quốc gia thích đọc sách nhất là Israel và Hungary. Ở Israel, trung bình mỗi năm người dân đọc 64 quyển. Ngay từ khi trẻ nhỏ bắt đầu biết nhận thức, hầu như mỗi bà mẹ đều nghiêm túc dạy bảo con: “Sách là nơi cất giữ trí tuệ, còn quý hơn tiền bạc, châu báu, và trí tuệ là thứ mà không ai có thể cướp đi được. Làm gì thì làm, con phải đọc sách mới đi ngủ". 
Người Do Thái là dân tộc duy nhất trên thế giới không có người mù chữ, ngay cả người ăn xin cũng luôn có quyển sách bên cạnh. Trong mắt họ, đọc sách báo là một phẩm chất tốt để đánh giá con người. 
Trong ngày Sabbath hay còn gọi là ngày lễ nghỉ ngơi, tất cả người Do Thái đều dừng các hoạt động. Các cửa hàng, quán ăn, những khu vui chơi đều phải đóng cửa, các phương tiện giao thông cũng ngừng hoạt động, ngay cả các công ty hàng không đều ngừng bay, người dân chỉ có thể ở nhà nghỉ ngơi hoặc cầu nguyện. Nhưng có một ngoại lệ, tất cả nhà sách trên toàn quốc vẫn được mở cửa. Trong ngày này, mọi người đến đây đều yên lặng đọc sách. 
Hungary có gần 20.000 thư viện, bình quân 500 người lại có một thư viện, đi thư viện cũng bằng đi cà phê hay siêu thị. Hungary cũng là quốc gia có số người đọc sách nhiều nhất thế giới, hàng năm có đến hơn 5 triệu người thường xuyên đọc sách, vượt quá 1/4 dân số nước này. 
Tri thức là sức mạnh, tri thức chính là tài sản. Một đất nước hay một cá nhân coi trọng việc đọc sách và tích lũy tri thức từ sách đương nhiên sẽ được hậu đãi. Bất luận họ làm ngành nghề gì, người đọc sách nhiều đều có một cách tư duy rất khác và dù không có thành tựu rực rỡ thì họ vẫn có một đẳng cấp rất riêng. Có nhiều dân tộc rất giàu nhưng không văn minh. Tương tự nhiều cá nhân rất nhiều tiền nhưng không thể sang được. Chỉ vì họ thiếu chiều sâu của tri thức. 
Dân số Israel thưa thớt, nhưng nhân tài vô số. Lịch sử xây dựng đất nước tuy ngắn, nhưng đã có 8 người đoạt giải Nobel. Thiên nhiên Israel khắc nghiệt, phần lớn đất đai là sa mạc, nhưng họ lại có thể biến đất nước mình thành một ốc đảo xanh tươi, lương thực sản xuất không chỉ đủ cung cấp trong nước, mà còn xuất khẩu một lượng lớn. Xã hội Israel trật tự quy củ và người Israel được tôn trọng trên khắp thế giới. 
Các giải thưởng Nobel mà Hungary nhận được thuộc về nhiều lĩnh vực như: vật lý, hóa học, y học, kinh tế, văn học, hòa bình, v.v….Nếu so với dân số, Hungary là “quốc gia của giải thưởng Nobel”. Phát minh của họ rất nhiều, có thể nói là không sao đếm xuể, từ những vật phẩm nhỏ bé, cho đến những sản phẩm công nghệ cao. Một quốc gia nhỏ bé vì yêu sách mà có được trí tuệ và sức mạnh, hơn hết là sự văn minh vượt bậc. Hungagry là quốc gia Đông Âu vô cùng sạch sẽ, xinh đẹp và đời sống tinh thần mười mấy triệu dân Hungary không khác gì các nước Bắc Âu. 
Các bạn thân mến. Một vị học giả lớn từng nói: “Lịch sử phát triển tư tưởng của một người chính là lịch sử đọc sách của người đó. Một xã hội sẽ phát triển hay tụt hậu, là dựa vào quốc gia có ai đang đọc sách, đọc những sách gì. Sách không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân, nó còn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Hãy nhớ: Một dân tộc không đọc sách là một dân tộc không có hy vọng. 
Đã đến lúc, người Việt đặc biệt là người trẻ cần giành thời gian nhiều hơn cho việc đọc sách. Đó là phương cách giúp con người tích lũy được tri thức nhanh nhất. Và đó cũng là một phương cách giúp quốc gia chúng ta nhanh chóng trở nên văn minh cường thịnh.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký , chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé !
Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! 



Thursday, March 12, 2020

Lý giải ứng xử khác biệt của Việt Nam và Hàn Quốc đối với Trung Quốc thông qua lịch sử



Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Việt Nam và Hàn Quốc đều có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, tuy nhiên khi đại dịch bùng phát thì mỗi quốc gia lại chọn cho mình một đối sách riêng về vấn đề cấm hay không cấm nhập cảnh với người Trung Quốc. So với những biện pháp mạnh tay của Việt Nam thì những biện pháp của Hàn Quốc được coi là "nhẹ nhàng", và tính tới thời điểm hiện tại thì số ca nhiễm của Việt Nam ít hơn hẳn so với Hàn Quốc. Lý do của sự khác biệt này là có thể lý giải được dựa trên lịch sử đấu tranh, đối đầu của 2 nước Việt Nam và Hàn Quốc với Trung Quốc suốt hàng nghìn năm qua.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin đi tìm hiểu về chủ đề này nhé !
Khi dịch bệnh mới bắt đầu lan rộng ở Trung Quốc, Việt Nam đã ngừng cấp thị thực cho người Trung Quốc vào ngày 30/1 và đình chỉ các chuyến bay qua lại giữa 2 nước. Chính phủ cũng cấm tất cả các con đường núi nối 2 nước và hạn chế thương mại tại 2 tỉnh biên giới như Lào Cai và Lạng Sơn. Chính phủ Việt Nam cũng thực hiện các biện pháp buộc khách du lịch Trung Quốc phải trở về nước trước ngày 31/1. Nhờ có những biện pháp cứng rắn này mà tính đến ngày 9/3 chỉ có 20 người nhiễm bệnh ở Việt Nam và không có trường hợp tử vong được ghi nhận.
Ngược lại, cho tới ngày 9/3 thì Hàn Quốc cũng không cấm hoàn toàn việc nhập cảnh từ Trung Quốc. Những người đến từ các vùng khác ngoài Hồ Bắc, nơi có thành phố Vũ Hán thì vẫn có thể nhập cảnh. Những đối sách có phần "dễ dãi" này đã đem lại hậu quả là dịch bệnh lây lan mạnh tại Hàn Quốc.
Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc được cho là lý do khiến cho Hàn Quốc không thể có hành động mạnh mẽ với Trung Quốc để ngăn chặn dịch bệnh. Nếu cấm công dân Trung Quốc, nên kinh tế của Hàn Quốc sẽ chịu thiệt hại nghiêm trọng
Tuy nhiên Việt Nam đã có những biện pháp mạnh mẽ mặc dù cũng có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc. Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khi nhập khẩu chiếm 30%. Nhưng không chỉ vậy. Việt Nam còn đang nhận được đầu tư đáng kể từ Trung Quốc thông qua Singapore và Hồng Kông. Các điểm du lịch như Đà Nẵng, Nha Trang đón rất nhiều khách du lịch tới từ Trung Quốc. Biến động lần này ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành du lịch Việt Nam.
Việt Nam, giống như Hàn Quốc, có quan hệ chặt chẽ về kinh tế với Trung Quốc. Tuy nhiên, khi Việt Nam có được thông tin rằng dịch bệnh đang bùng phát mạnh tại Trung Quốc, họ đã thực hiện các biện pháp quyết liệt mà không mảy may tính đến những ảnh hưởng xấu lên nền kinh tế. Mặt khác Hàn Quốc thì ngay cả bây giờ cũng không thể cấm hoàn toàn việc nhập cảnh của công dân Trung Quốc.
Từ trước đến nay với Trung Quốc, Hàn Quốc đã tỏ ra mềm yếu, tuy nhiên họ lại phản đối mạnh mẽ việc Nhật Bản cấm nhập cảnh với công dân nước họ. Để trả đũa, họ đã có những hành động "trẻ con" như là cấm nhập cảnh đối với công dân Nhật Bản.
Số người nhiễm bệnh ở Hàn Quốc chỉ đứng sau Trung Quốc. Trong hoàn cảnh như vậy nhiều quốc gia đã cấm nhập cảnh với người tới từ Hàn Quốc. Kể từ 9/3 Việt Nam đã hạn chế nhập cảnh với người tới từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Không chỉ có Việt Nam, Trung Quốc cũng đã cấm nhập cảnh từ Hàn Quốc, nhưng Hàn Quốc không phản đối Trung Quốc hay Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc có thái độ trái ngược 180 độ đối với Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến đại dịch. Sự khác biệt này có thể nói là do lịch sử quyết định.
Việt Nam đã chiến đấu chống lại các cuộc xâm lược của Trung Quốc trong suốt 2000 năm qua. Việt Nam trở thành thuộc địa của Trung Quốc vào khoảng 2000 năm trước  từ thời nhà Hán. Tuy nhiên, khoảng 1000 năm trước khi nhà Đường trở nên mục nát, nội bộ trở nên rối loạn, Việt Nam đã giành lại được độc lập. Tuy nhiên, từ đó trở đi, tuỳ từng thời điểm mà Trung Quốc vẫn tấn công và xâm lược Việt nam. Nhưng lần nào cũng vậy, Việt nam kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đẩy lui quân xâm lược đông đảo tới từ Trung Quốc.
Phía bên kia biển Nhật Bản là bán đảo Triều Tiên, những người dân sống ở đây cũng chịu sự đe doạ từ Trung Quốc giống như Việt Nam. Người dân Việt Nam đã chọn đứng lên và sử dụng vũ lực để chống lại mối đe doạ, còn những người dân trên Bán đảo Triều Tiên đã chọn một cách phản ứng hoàn toàn khác. Những người Triều Tiên chọn cúi mình và phục tùng Trung Quốc. Nhà Triều Tiên từ năm 1392 cho tới năm1910 chọn "phục tùng Trung Quốc" là quốc sách tuyệt đối trong suốt triều đại của mình.
Người dân Triều Tiên ngước coi Trung Quốc từ nhà Minhcho tới nhà Thanh như nước minh chủ và luôn phải xem ý Trung Quốc thế nào để còn sống cho hợp.
Trong "Tư tưởng Hoa-Di" Triều Tiên đã coi những người sống ở Mãn Châu và Nhật Bản là những người có địa vị thấp kém hơn mình. Hành động coi thường những người xung quanh, là một cách để xoa dịu nỗi nhục nhã đối với Trung Quốc. Dân Triều Tiên, những người luôn phải nhìn theo Trung Quốc mà sống, không thể giữ được sự tự hào dân tộc trừ khi họ coi thường người khác.


Các bạn thân mến !
Sự khác biệt giữa phản ứng của Việt Nam và Hàn Quốc đối với sự hỗn loạn do bệnh dịch gây ra có thể được giải thích từ lịch sử của 2 nước. Việt Nam vốn luôn mạnh dạn đấu tranh chống lại Trung Quốc, đã có thể có thái độ cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề này. Do đó đã thành công trong việc kìm hãm số người bị nhiễm bệnh cho tới bây giờ. Mặt khác, Hàn Quốc vốn luôn phải nhìn Trung Quốc mà sống, đã tiếp tục các chính sách "dễ dãi" cho phép người Trung Quốc nhập cảnh và mang mầm bệnh đến lan truyền tại đất nước của họ.
Để biết người dân của một nước sẽ hành động như thế nào mỗi khi có một sự kiện bất ngờ xảy ra, chúng ta cần nhìn vào lịch sử của quốc gia đó.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé !
Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau !

Friday, February 21, 2020

Người Tiều ( Triều Châu) – Nhóm người Hoa có thiên phú làm kinh doanh tại Việt Nam.


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Chắc hẳn trong số các quý vị khán giả có người đã từng nghe hay biến đến ca khúc người đến từ Triều Châu. Vậy có khi nào các bạn thắc mắc người Triều Châu là ai mà có cả một ca khúc viết riêng về họ như vậy.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về nhóm người Triều Châu với lịch sử và nét văn hóa cũng rất đặc sắc này nhé ! (1)
Triều Châu  là một thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Triều Châu giáp Sán Đầu phía nam, Yết Dương phía tây nam, Mai Châu phía tây bắc, tỉnh Phúc Kiến ở phía đông và biển Đông ở phía đông nam. (2)
Người Tiều hay còn gọi là người Triều Châu, là một bộ phận người Hoa xuất xứ từ Triều Châu, Trung Quốc, đến định cư sinh sống ở Việt Nam. Người Tiều chiếm số đông trong cộng đồng di dân gốc Trung Hoa. Người Hoa Triều Châu tập trung sinh sống đông đúc ở Chợ Lớn, ngoài ra còn tập trung sinh sống ở Trà VinhSóc TrăngBạc LiêuKiên Giang.
Trên toàn thế giới, người Tiều hiện nay có dân số khoảng 25 triệu và có mặt tại hơn 40 quốc gia. (3)
Theo tư liệu, người Hoa di cư đến vùng đất Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ thứ 17. Khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều, người Hoa sinh sống ở Việt Nam có tất cả là 7 bang. Trong đó có 1 bang của người Tiều bên cạnh 6 bang khác là: Quảng Triệu (còn gọi là Bang Quảng Đông), Khách giaPhước KiếnPhước ChâuHải Nam và Quỳnh Châu. (4)
Người Tiều thường mang họ Trần, Trương, Lý, Lâm, Mã, Quách, Tạ, Trầm, Nhiêu. Người Tiều ở Nam bộ sống chan hòa với cộng đồng người Kinh và Khmer. Họ hòa nhập cùng các lễ tục của cộng đồng nhưng vẫn giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình. (5)
Doanh nhân người Tiều rất giỏi làm giàu nên thành đạt và đóng góp tài lực dồi dào cho xã hội. Có thời, những ngai “vua” trong các ngành nghề kinh doanh ở Chợ Lớn đều do người Hoa Triều Châu nắm giữ. (6)
Người Tiều có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Tiều. Người Tiều nói riêng cùng với cộng đồng người Hoa kiều nói chung có nền văn hóa nghệ thuật phát triển rất phong phú, đặc sắc, mang đậm nét Trung Hoa truyền thống. Trong đó, hát Tiều là thể loại ca kịch độc đáo vẫn được bảo tồn, phát triển. (7)
Ẩm thực của người Tiều phong phú và đặc sắc với nhiều món ăn đã thành danh và được cả người Kinh và Khmer yêu chuộng như xá bấuphá lấucháo Tiềuhủ tiếu Hồchè hột gà nấu đường. (8)
Người Tiều cũng như các cộng đồng người Hoa khác có các hội quán, không chỉ là nơi có ý nghĩa về tín ngưỡng mà còn là nơi sinh hoạt gặp gỡ của cộng đồng. Trong số đó phải kể đến như Hội quán Triều Châu hay còn gọi là chùa Âm Bổn tại Hội An được Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845, làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng khi đến Hội An sinh sống; Nghĩa An Hội Quán hay còn gọi là chùa Ông, nằm tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là nơi chiêm bái của người Hoa gốc Triều Châu ở vùng Sài Gòn, mà còn là một công trình có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật ở nửa cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 (9)
Một số người Hoa Triều Châu nổi tiếng như Quách Đàm  là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây. (10)
Hay như ca sĩ Trường Vũ tên thật là Huỳnh Văn Ngoảnh là một nam ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt nổi tiếng về dòng nhạc vàng Việt Nam. (11)
Về nguồn gốc của người Triều Châu tại Trung Quốc thì vẫn còn là giả thuyết.
Lịch sử ghi lại như sau: Tần Thủy Hoàng được sinh ra tại Hàm Đan, là con của một nữ nhân Triệu Quốc, tên là Triệu Cơ. Ông và mẹ từng bị người Triệu truy đuổi sau khi cha ông là con tin Dị Nhân bỏ trốn cùng Lã Bất Vi. (12)
Sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính xong nước Triệu, dân Triệu phản đối quyết liệt khi bị cưỡng bức đi xây dựng Vạn Lí Trường Thành. Không những thế họ còn dè bỉu nguồn gốc vua Tần và bịa chuyện vua Tần thực ra là con của Lã Bất Vi. Sẵn ác cảm cũ, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đàn áp giết hại dân Triệu rất dữ. (13)
Năm 214 TCN, Đồ Thư được lệnh mộ binh và dân ô hợp nam tiến, rất nhiều người Triệu đã bị đày ải theo đoàn quân xâm lăng Bách Việt.  (14)
Sau khi Đồ Thư bị giết, Triệu Đà cát cứ Phiên Ngung lập nước Nam Việt, một nhóm lớn người Triệu đi đến một vùng hoang vu thuộc Mân Việt và quần tụ sinh sống ở đấy cho đến ngày nay. Có thể người Triều Châu đã lai với người Mân Việt rất nhiều, nhưng xếp họ vào nhóm Mân là không đúng. (15)
Là cư dân hạn canh, người Triều Châu như cách họ tự gọi mình sau này, mau chóng chuyển đổi qua trồng lúa thủy canh nơi đất mới, thổ nhưỡng mới. Các nông gia Triều Châu vẫn giữ truyền thống xa xưa từ lưu vực sông Hoàng Hà. Khi làm đồng họ luôn đeo bên thắt lưng một bầu nước gạn từ nồi cơm sôi. Họ dùng nó để giải khát, tinh bột hoà trong đó còn giúp họ chống lại hiện tượng hạ đường huyết khi lao động mệt nhọc. (16)
Đến thời Đường, người Phúc Kiến nhiều lần lấn át dân Triều Châu, cướp đất của người Triều Châu đã khai phá. Do đó phong tục Triều Châu từ đó cấm tất cả các cuộc hôn nhân Triều Châu – Phúc Kiến. (17)
Các bạn thân mến. Doanh nhân người Tiều rất giỏi làm giàu nên thành đạt và đóng góp tài lực dồi dào cho xã hội. Chịu chơi và chơi đẹp là lẽ sống của họ. Người Hoa Triều Châu không chịu làm công lệ thuộc người khác mà thích lập thân làm chủ sản nghiệp dù nhỏ hay lớn, kiếm được ít hay nhiều tiền. Dân Tiều cũng tỏ ra có năng khiếu thiên phú trong nghề buôn bán.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (18)

Sunday, February 16, 2020

Bồn Man – Vương quốc cổ từng nằm trong lãnh thổ Đại Việt hơn 300 năm


Bồn Man – Vương quốc cổ từng nằm trong lãnh thổ Đại Việt hơn 300 năm
Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Bồn Man là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam. Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như Đại ViệtLan XangXiêm La và ngày nay thuộc lãnh thổ Lào. Vùng này từng nằm dưới sự cai trị của Đại Việt từ thời vua Lê Nhân Tông với tên gọi là Trấn Ninh thuộc xứ Nghệ An.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về vương quốc cổ từng thuộc Việt Nam trong hơn 300 năm này nhé ! (1)
Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan đã di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến Ai Lao. Vào khoảng cuối thế kỷ 13 họ đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở cánh đồng Chum trên cao nguyên Xiêng Khoảng. (2)
Tiểu quốc Bồn Man của Tai Phuan được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh - Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú. (3)
Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang, phía Đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man được hợp nhất vào Lan Xang dưới thời vua Phà Ngừm.
Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm cai trị, với thủ đô là Xiêng Khoảng, dân số ước chừng 9 vạn hộ. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ phải cống nạp thuế cho Lan Xang (4)
Tháng 7, mùa thu năm 1448. Bồn Man xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông. Triều đình đem đất của Bồn Man đặt làm châu Quy Hợp  xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Cầm đời đời làm Phụ đạo. (5)
Năm 1478, Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man liên kết với Lan Xang đem binh quấy nhiễu châu Quy Hợp. Vua Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ VựcTrịnh Công Lệ  đánh quân Bồn Man và Lan Xang. Quân Đại Việt chia làm 5 đạo từ Nghệ AnThanh HóaHưng Hóa đã đánh thắng và đuổi quân địch tới tận lưu vực sông Mê Kông giáp với Miến Điện ngày nay. (6)
Theo Việt Nam sử lược thì sau khi Cầm Công bị giết, vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập lãnh thổ Bồn Man vào Đại Việt, đặt tên là Phủ Trấn Ninh và giao cho một người họ hàng của Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt các quan cai trị như trước.  (7)
Vào năm 1735-1739 thời Lê Ý Tông, Trấn Ninh  bị một hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật chiếm cứ. Tù trưởng Trấn Ninh là Cầm Hương bị bắt giam . Trịnh Sâm đã điều quân sang đánh dẹp Lê Duy Mật, lập lại Trấn Ninh và giao cho cháu Cầm Hương là Cầm Uẩn làm tù trưởng. Đến cuối thế kỷ 18 vương quốc Xiêm La đã hình thành và lớn mạnh, Trấn Ninh lại trở thành một chư hầu của Xiêm, nhưng vẫn triều cống Đại Việt. (8)
Thời nhà Tây Sơn , các tù trưởng Trấn Ninh, theo Xiêm La và Vạn Tượng chống lại nhà Tây Sơn. Năm 1791, Trần Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng Thiệu KiểuThiệu Đế của Trấn Ninh. (9)
Thời nhà Nguyễn,vua  Gia Long đem đất Trấn Ninh cắt về cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ. Sự việc này được chép ngắn gọn trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:
Trấn Ninh: Đất Bồn Man xưa, hồi đầu triều Lê, họ Cầm nối nhau làm phụ đạo; đến Lê Thánh Tông chia đất này lập ra làm phủ Trấn Ninh, quản lãnh 7 huyện: Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Minh, Minh Quảng, Quang Lang và Tư Thuận, cho họ Cầm nối đời làm tù trưởng. Cuối năm Vĩnh Hựu (niên hiệu Lê Ý Tông 1735-1739), Lê Duy Mật chiếm cứ, đến năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770) mới dẹp yên được, lại cho họ Cầm được nối đời quản trị. Bản Triều, năm Gia Long thứ nhất (1802) đem đất ấy phong cho nước Vạn tượng. (10)
Như vậy sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, chỉ vì Gia Long muốn lôi kéo vương quốc Vạn Tượng nên tự cắt đất chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm. (11)
Khi Chiêu Xanh, tù trưởng Trấn Ninh chết, A Nỗ không lập con Chiêu Xanh là Chiêu Nội lên.Vì vậy Chiêu Nội thù A Nỗ, rồi sau đó chạy sang phủ Trà Lân xứ Nghệ để xin nội thuộc lại Đại Nam dưới thời vua Ming Mạng. (12)
Đại Nam Thực Lục ghi lại sự kiện vương quốc Vạn Tượng diệt vong và Minh Mạng ra lệnh lấy lại phủ Trấn Ninh như sau:
Trấn Ninh vốn là bờ cõi cũ của ta, xưa đức Tiên đế đem cho Vạn Tượng, không tính đến tiết nhỏ. Nay A Nỗ xiêu dạt, tù trưởng đất ấy không có chỗ nương tựa, lại đem đất ấy dâng ta, thế là ta không mất một mũi tên mà được người xa thần phục, kinh lược như thế là có tiếng giỏi. Vả lại đất ấy hiểm yếu, đời Lê trước Lê Duy Mật chiếm giữ hơn 30 năm, nhà Lê không làm gì được, hình thế vững chắc như thế đấy. Nay lại về ta, thực đủ san phẳng sào huyệt của kẻ gian mà thêm phên giậu mạnh cho nước nhà” (13)
Đến khi A Nỗ chống lại nước Xiêm, bị vua Xiêm là Rama III sai Chao Phraya Bodin Decha đánh cho thua chạy sang Nghệ An, qua Trấn Ninh bị Chiêu Nội bắt nộp cho Xiêm năm 1828. Chiêu Nội bị vua Minh Mạng khép tội chết vì hành động này.
Sau khi giết Chiêu Nộinhà Nguyễn cử quan Việt sang cai trị Trấn Ninh. Năm 1823, nhà Nguyễn đặt thêm huyện Liêm (14)
Tháng 3/1832, nổ ra cuộc khởi nghĩa của hơn 200 binh lính Trấn Ninh, do Trần Tứ và Đỗ Bắc lãnh đạo, nổi dậy chống nhà Nguyễn và liên kết với cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương. Những năm 1833-1834, trong chiến tranh Việt-Xiêmngười Thái tấn công Đại Nam, một trong các hướng là qua ngả Trấn Ninh. Đất Trấn Ninh bị người Thái lấn dần. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm 1893, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh  Hủa Phăn và Xiêng Khoảng trước thuộc Trấn Ninh của Đại Việt giao về lãnh thổ Lào.
Các bạn thân mến. Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (15)



Thursday, February 13, 2020

Người phát minh ra giấy đầu tiên là người Việt, không phải người Hán



Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Sự phát minh ra giấy viết là một sự kiện lớn trong lịch sử loài người. Từ khi có giấy, sự kế thừa và truyền bá kiến thức tiến vào thời đại hoàn toàn mới. Giấy ngày nay đã trở nên quá đỗi thông dụng và phổ biến. Nó hiện diện trên mọi mặt của cuộc sống, nhưng nguồn gốc của giấy thì lại không nhiều người thực sự biết tới. Hầu như mọi người đều cho rằng, đó là một phát minh của người Trung Quốc có tên là Thái Luân, với đoạn sử được ghi lại trong Hậu Hán Thư. Nhưng ngày nay lại có những bằng chứng chứng minh rằng phát minh giấy có nguồn gốc từ phương Nam, cụ thể là từ người Việt cổ, hay người Bách Việt trong cổ sử Trung Hoa ghi lại.
Vậy thực hư câu chuyện này là như thế nào. Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu nhé.  (1)
Học giả Trung Quốc Quan Mẫn trong bài nghiên cứu về “‘Tứ đại phát minh’ của Trung Quốc có tên là: Liều thuốc độc của phép thắng lợi tinh thần”  đã nói về việc Trung Quốc “nhận bừa” những phát minh của nhân loại làm của riêng mình như: thuốc nổ, kim chỉ nam, thuật in ấn, làm giấy.  Quan Mẫn khẳng định: “Người Trung Quốc vốn kiêu căng cho rằng Trung Quốc là nơi phát minh sớm nhất”.
Trong phần nói về phát minh ra giấy, Quan Mẫn viết “tại Trung Quốc được biết vào thời nhà Hán có xuất hiện giấy, nhưng không tìm được thư tịch gì của thời đại đó lưu lại” (2)
Nhưng hiện nay thật may mắn cho người Việt Nam khi chúng ta có thể lần lại được dấu tích trong tập cổ sử Bách Việt Tiên Hiền Chí (百越) rút ra trong đại bộ dã sử Lĩnh Nam Di Thư () do Âu Đại Nhậm biên soạn vào năm 1554 triều Minh. Bộ sách này gồm 4 quyển, giới thiệu 108 bậc tiên hiền Bách Việt đã phát hiện ra các nghề làm giấy, rèn kim loại, dệt tơ lụa,… ở thế kỷ thứ 2 sau CN. Nhưng sau này người Hán Trung Quốc vốn là dân du mục háo chiến từ phương Bắc tràn xuống xâm lăng thôn tính đất đai của các dân Bách Việt. Đồng thời chiếm đoạt luôn các nền văn hóa bản địa của Bách Việt, tự coi như chính mình đã phát minh ra. (3)
Âu Đại Nhậm, thuộc gốc Bách Việt ở Phúc Kiến, người ở huyện Thuận Đức tỉnh Quảng Đông, tên chữ là Trịnh Bá làm quan lớn thời Gia Tĩnh triều Minh (năm 1522). Huyện Thuận Đức là một huyện thuộc phủ Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông do nhà Minh lập ra.
Âu Đại Nhậm đã từng giữ chức vụ huấn đạo Giang Tô, học chánh Quảng Châu rồi về triều làm quan ở Quốc Tử Giám, và cuối cùng là họ bộ lang trung ở Nam Kinh. “Phần lớn cuộc đời làm quan của ông là ở đất Bách Việt cũ, nên ông có nhiều cơ hội tìm hiểu, sưu tập những chứng tích về tiên hiền Bách Việt” . (4)
Người Hán Trung Quốc vốn là dân du mục đến từ cao nguyên Phía Bắc. Dân du mục sống nay đây mai đó, chuyên nghề chinh chiến và chăn nuôi. Họ cần đồng cỏ để chăn nuôi gia súc. Họ đi chiếm các vùng đất của các bộ lạc khác, giết hết đàn ông và con trai, bắt đàn bà con gái về làm vợ và làm tôi tớ, chiếm đất cướp của. Khi tài nguyên cạn kiệt, họ nhổ trại đưa đàn súc vật đi chiếm vùng đất khác. Lối sống này đã thấm vào máu huyết họ từ đời này qua đời khác. Lịch sử Trung Quốc cho thấy họ là dân tộc chuyên đi chiếm đoạt lãnh thổ và văn hóa người khác. Từ thời cổ đại đến nay, lịch sử Trung Quốc đã chứng minh việc ấy. (5)
Còn nói về giống dân  Bách Việt thì họ là các tộc người đồng chủng, đồng văn hóa. Ngày nay, các nhà nghiên cứu văn hóa thế giới và Việt Nam cũng đã chứng minh tính thống nhất của văn hóa Bách Việt. Vùng sinh sống của các tộc người Việt cổ trải dài từ miền Nam Trung Quốc ngày nay tới miền Bắc Việt Nam. Vùng ảnh hưởng văn hóa thì còn rộng hơn thế, họ được cho là những người thuần hóa lúa nước đầu tiên, cũng như phát triển kỹ thuật luyện đồng, họ cũng được cho rằng có một nền văn minh tinh thần và tri thức phát triển, tuy nhiên do điều kiện lịch sử, nên những dấu tích đó hầu như đã biến mất, hoặc thay tên đổi chủ, chúng ta chỉ còn thấy lại những di sản vật chất thông qua khảo cổ. (6)
Quay lại vấn đề chính, thì người Trung Quốc gắn phát minh giấy của mình cho Thái Luân , một vị quan triều Hán, nhưng sách “Bách Việt tiên hiền chí” của tác giả Âu Đại Nhậm, viết thời Minh, lại kể tên Thái Luân trong số các tiên hiền Bách Việt làm quan và đóng góp cho các triều đại Hoa Hán, sách cũng đã kể lại chi tiết về cuộc đời ông. Quê ông ở Quế Dương, thị xã Sầm Châu, tỉnh Hồ Nam. Tỉnh Hồ Nam nằm ở phía Nam, sát biên giới bắc 2 tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông (7)
Vùng này nằm trong địa bàn Bách Việt bị nhà Hán chiếm, sau đó Hai bà Trưng khởi nghĩa đòi lại được trong thời gian ngắn. Rất có thể ông đã kế thừa và phát triển kỹ thuật làm giấy của người Việt, để tạo ra loại giấy mà nhà Hán hay các triều đại sau này sử dụng. (8)
Chuyện kể rằng, Trương Hoa (232-300) đã soạn cuốn Bác Vật Chí dâng lên Vũ Đế. Công trình gồm 400 quyển được rút lại còn 10 quyển. Hoàng đế ban cho Trương Hoa đồ dùng để chép lại công trình: một thỏi mực bằng đá Khotan, một cây bút cán bằng sừng kỳ lân đến từ nước Liêu Tây và một vạn tờ giấy Trắc Ly Chỉ (tức giấy Gân Nghiêng) đến từ Nam Việt. Người phương Nam làm giấy bằng rong. Gân của nó dọc và ngang đều chạy nghiêng, vì vậy mà có tên đó. (9)

Còn Nam Phương Thảo Mộc Trạng của Kê Hàm, soạn năm 30 có ghi:
“Mật hương chỉ ( tức giấy mật hương) làm bằng vỏ và lá của thứ cây có mùi mật. Giấy màu nâu. Nó có những vân hình trứng cá. Giấy rất thơm, bền và mềm. Khi thấm mực nó không bị mủn. Năm Thái Khang thứ 5 (đời Tấn, năm 284) sứ bộ La Mã dâng đến 30.000 tờ. Hoàng đế ban cho Đỗ Dự là Bình Nam tướng quân và Đan Dương hầu 10.000 tờ để viết Xuân thu thích lệ và Kinh truyện tập giải dâng lên vua. Nhưng Đỗ dự chết trước khi giấy được gởi đến. Theo chỉ dụ, giấy đó được ban cho gia đình”. (10)
Lễ vật của sứ bộ và nhà buôn La Mã đem đến không phải xuất xứ từ đế quốc La Mã mà đến từ bán đảo Đông Dương (Hậu Hán thư nói rõ, phái bộ đến từ Nhật Nam, tức là Việt Nam khi bị nhà Hán chiếm và chia tách thành Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam). (11)
Có thể thấy giấy gân nghiêng và giấy mật hương đều được tạo nên bằng những loại cây có nguồn gốc từ phương Nam, và nó đã được sản xuất ở số lượng lớn, chứng tỏ rằng khi đó người Việt đã ổn định kỹ thuật sản xuất, và có thể tổ chức sản xuất quy mô. Đây là bằng chứng rất quan trọng để chứng minh người Việt đã có thể sản xuất ra giấy.  Theo Gs.Ts Jean-Pierre Drège, Viện Viễn Đông Bác Cổ, thì giấy có thể có nguồn gốc từ phương Nam, và có thể lùi về thế kỷ 1, thậm chí thế kỷ 2 TCN. Ông cho rằng Thái Luân có thể chỉ kế thừa và cải tiến kỹ thuật làm giấy của người Việt. (12)
Có giả thuyết cho rằng người Việt đã chuyển sang sử dụng chữ tượng thanh ghi trên giấy, nên khi bị thất truyền, không được sử dụng trong thời gian dài, thì con chữ đó gần như cũng biến mất luôn, hầu như không thể tìm lại dấu tích. Khảo cổ của chúng ta rất khó khăn trong việc tìm lại dấu tích về chữ viết của người Việt cổ. Thông qua việc chứng minh giấy là của người Việt này,tôi cho rằng nhận định này hoàn toàn có cơ sở, người Việt có thể đã chuyển hẳn sang sử dụng giấy, nên không thể giữ gìn cho đến ngày hôm nay. (13)
Dân tộc Hán thời xưa chỉ sinh sống ở phía  Bắc sông Hoàng Hà. Từ phía Nam sông Hoàng Hà là địa bàn dân Bách Việt mà người Hán coi thường gọi là giống dân “man di” không văn minh . Hồ Nam là vùng đất trũng nhiều ao hồ và sông nước thích hợp cho việc trồng lúa nước, và các loại cây nhiệt đới như cây đay gai… Nguyên liệu làm giấy mà Thái Luân dùng chính là “vỏ cây đay gai, vải vụn nát, lưới cá rách”. (14)
 Người Hán sống ở phía Bắc sông Hoàng Hà toàn là đất cao nguyên khô cạn chỉ thích hợp cho dân du mục, chăn nuôi và săn bắn. Trung Quốc vốn là dân du mục háo chiến, bạo lực đã tràn xuống miền Nam tiêu diệt hay Hán hóa các bộ tộc khác và chiếm luôn nền văn hóa bản địa trong đó có nghề làm giấy của người Việt mà sau này Thái Luân đã kế thừa và phát triển. (15)
Nhà bác học Đức Albert Einstein khi bình luận về nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã kết luận: không có chuyện khoa học cổ đại Trung Quốc đi trước. Có nghĩa là những phát minh giấy, thuốc nổ, kim chỉ nam, y học cổ truyền,… đều không phải của người Trung Quốc sáng tạo như họ đã tuyên bố. Và nếu có phát minh ra các thứ gì tại đất Trung Quốc xưa thì cũng không phải do dân Hoa Hán du mục mà do các dân Bách Việt nông nghiệp phía Nam sông Hoàng Hà sáng tạo ra như trường hợp Thái Luân phát minh ra giấy.  (16)
Các bạn thân mến. Ngày nay hơn bao giờ hết, trước những thách thức vô cùng to lớn, người Việt Nam chúng ta cần ôn lại lịch sử hào hùng của Tiên Hiền Bách Việt ngày xưa. Người Việt Nam chúng ta hiện là dân tộc duy nhất trong khối Bách Việt vẫn giữ được độc lập và danh xưng của mình. Hay nói cách khác chúng ta chính là khối kết tinh vững chắc nhất của khối Bách Việt, đại diện xứng đáng cho nền văn minh Châu Á cổ xưa vĩ đại.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (17)