Wednesday, December 25, 2019

Hoàng Tử Đại Việt Lý Long Tường - Ông tổ dòng họ Lý Hoa Sơn tại Triều Tiên, Hàn Quốc


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Lịch sử thế giới đã ghi chép lại rất rõ ràng 3 lần quân dân Đại Việt thời nhà Trần đã đánh tan quân Nguyên Mông, đế chế  hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ. Nhưng ít ai biết nếu tính thêm chiến công của hoàng tử Lý Long Tường thì trên thực tế người Mông Cổ đã phải ôm hận trước người Việt tới 5 lần. Vậy Hoàng Tử Lý Long Tường là ai, và trận đánh với đế chế Mông Cổ do ông lãnh đạo đã diễn ra như thế nào. Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin đi tìm hiểu nhé !
Lý Long Tường là hoàng tử triều Lý nước Đại ViệtHoa Sơn Tướng quân nước Cao Ly và là ông tổ của dòng họ Lý Hoa Sơn ngày nay tại Triều Tiên và Hàn Quốc.
Lý Long Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ bảy của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138 – 1175) và Hiền Phi Lê Mỹ Nga. Ông được ban chức Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc hải quân, tước Kiến Bình vương. Ông là em trai vua Lý Cao Tông.
Năm 1225Trần Thủ Độ lật đổ nhà Lý bằng cách đưa cháu là Trần Cảnh vào hầu Lý Chiêu Hoàng, dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để lập ra nhà Trần. Sau đó Trần Thủ Độ tiến hành tàn sát con cháu nhà Lý , buộc con cháu nhà Lý đổi qua họ Nguyễn, đày con cháu nhà Lý đi lên vùng núi non hiểm trở phía bắc.
Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ hai đời Vua Thái Tông nhà Trần), để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã bí mật về Kinh Bắc, vái lậy tạ biệt lăng miếu Đình Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần PhùThanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội.
Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc. Trên đường đi tiếp đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly. Tương truyền rằng trước đó Vua Cao Tông của Cao Ly nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung thân
Tại đây Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc trồng trọtđánh cáchăn nuôi. Ông cho mở Độc thư đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và Giảng võ đường dạy võ (chiến thuật quân sự, các loại binh pháp, binh khívõ thuật). Học trò theo học rất đông, lúc nào cũng trên nghìn người.
Vào năm 1225, dưới triều vua Cao Tông (trị vì từ 1213 – 1259), vị vua thứ 23 của nhà Cao LyĐế quốc Mông Cổ gởi sứ giả đến Cao Ly yêu cầu cống nộp nhưng Cao Ly từ chối, đồng thời còn giết chết sứ giả của Mông Cổ là Trứ Cốc Dư (Chu-ku-yu - 箸告與).
Năm 1232, Đại hãn Oa Khoát Đài đem quân tiến đánh Cao Ly bằng hai đường thủy bộ. Về đường thủy, quân Nguyên Mông vượt biển tiến đánh tỉnh Hoàng Hải nhưng bị Lý Long Tường lãnh đạo tướng sĩ, gia thuộc và quân dân địa phương đẩy lui. Khi ra trận, ông thường cưỡi ngựa trắng đôn đốc quân sĩ, nhân dân gọi ông là Bạch Mã Tướng quân (白馬將軍).
Năm 1253, Đại hãn Mông Ca lại đem quân đánh Cao Ly lần thứ hai. Quân Nguyên Mông do Đường Cơ chỉ huy tấn công Hoàng Hải cả đường thủy lẫn đường bộ. Lý Long Tường lãnh đạo quân dân trong vùng chống trả quân Nguyên Mông suốt 5 tháng ròng bằng binh pháp của Đại Việt do ông truyền dạy. Sau chiến công này, Vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng Quân. Nơi quân Nguyên Mông đầu hàng gọi là Thụ hàng môn (受降門) và Vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây để ghi công ông (di tích này hiện nay vẫn còn).

Khi mất, ông được chôn tại chân núi Di Ất, gần Bàn Môn Điếm bây giờ. Thời gian sống ở Hoa Sơn, Lý Long Tường thường lên đỉnh núi ngồi trông về phương Nam mà khóc, nơi ấy gọi là Vọng quốc đàn.
Ngày nay trên đại lộ từ phi trường Kimpo về thủ đô Hán Thành, du khách được chiêm ngưỡng pho tượng Bạch Mã Tướng Công do chính phủ Hàn Quốc xây dựng từ thập niên 1960.
Các bạn thân mến. Ngày nay mối bang giao giữa hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc đang ngày càng khăng khít. Số lượng người dân qua lại giữa hai quốc gia ngày một tăng. Tình cảm giữa hai quốc gia cũng ngày càng nồng ấm. Và mối liên hệ giữa hai quốc gia với địa lý xa xôi từ 800 năm trước đã được đặt nền móng rất vững chắc bởi Hoàng Tử Lý Long Tường. Ngày nay hậu duệ nhà Lý ở Hàn Quốc vẫn không quên cội nguồn của mình. Năm 1994 có ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 26 của Lý Long Tường đến Việt Nam, tìm đến từ đường họ Lý ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh để bái tổ tiên. Hiện nay ông và gia đình đã định cư và nhập quốc tịch Việt Nam.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy chia sẻ, đăng ký và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau !

Monday, December 23, 2019

Giải mã ý nghĩa danh xưng Việt đầy thiêng liêng của dân tộc ta


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có lòng tự tôn về tên gọi của dân tộc mình. Có khi nào các bạn thắc mắc tại sao chúng ta lại có danh xưng là dân tộc Việt hay không ?

Hôm nay chúng ta hãy thử cùng nhau lý giải về tên dân tộc ta nhé !

Nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu ý nghĩa từ “Việt” qua chữ Hán , chữ này bao gồm chữ “tẩu” (tức là chạy) bên trái và chữ “qua” (tức là giáo mác, búa, chiến tranh) bên phải cấu thành. Từ đó có người cho rằng chữ Việt có nghĩa là người Việt phải chạy về phía nam để tránh bị người Hoa Hạ đồng hóa.
Hình ảnh: Chữ Việt trong Hán tự




Thế nhưng theo các truyền thuyết mà tổ tiên ta truyền lại thì người Việt vốn tự hào mình là con rồng cháu tiên, rất nhiều câu chuyện từ xa xưa đều gắn với điều này. Vì thế hàm nghĩa của chữ “Việt” chắc chắn không thể đơn giản như thế được. Để hiểu được chữ “Việt” mang ý nghĩa gì thì phải tìm đến chữ “Việt” của người Việt cổ, chứ không thể qua chữ Hán được.
Chữ Việt cổ  đã xuất hiện trước cả chữ Hán. Khi Lưu Bang lập ra nhà Hán vào năm 202 trước công nguyên đã tiêu chuẩn thống nhất hóa chữ viết của mình và gọi là chữ Hán, đồng thời bắt các nước chư hầu khác phải dùng theo. Còn trước đó các dân tộc đều có chữ viết của mình. Người Việt chúng ta cũng không phải ngoại lệ.
Các cuộc khai quật tại tỉnh Hà Nam (thuộc Trung Quốc ngày nay) đã phát hiện nhiều di tích đồ đồng từ thời nhà Thương (1600 đến 1046  trước công nguyên). Hà Nam chính là đất Ân thời nhà Thương. Trong sử Việt có câu chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân, chính là nhà Thương vào thời đấy. Các cuộc khai quật tìm thấy nhiều chữ viết trong đó có chữ “Việt” cổ.




Chữ “Việt” cổ cũng đã được tìm thấy trên thanh bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn

Năm 1965 khi khai quật khu mộ cổ ở tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc), các nhà khảo cổ học đã tìm được thanh bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn, thanh bảo kiếm này hoàn toàn không bị hoen gỉ, còn như mới suốt 2500 năm qua; không chỉ thanh kiếm còn nguyên vẹn, mà thậm chí từng hoa văn chữ viết trên đó vẫn còn rất rõ ràng.


Hình ảnh: Bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn

Nước Việt thời Câu Tiễn (trị vì từ năm 496 đến 465 trước công nguyên) là của thị tộc người Ư Việt – một trong những thị tộc thuộc nhóm Bách Việt.
Chữ viết được khắc trên thanh kiếm này không phải là chữ Hán, các nhà khảo cổ học xác định đây là loại chữ còn có trước cả chữ Hán. Thanh kiếm được khắc 8 chữ là“Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm”. 



Đặc biệt chữ “Việt” trên thanh bảo kiếm này không có trong chữ Hán, cũng như không có trong bất kỳ bộ từ điển nào nhưng hoàn toàn trùng khớp với chữ “Việt” cổ được khai quật tại tỉnh Hà Nam Trung Quốc trong các đồ vật có niên đại từ thời nhà Ân Thương.

So sánh chữ “Việt”trên kiếm của Việt Vương Câu Tiễn và di tích chữ “Việt” khai quật được là trùng khớp nhau. Như vậy đây rất có thể là chữ Việt Cổ mà chúng ta đang tìm kiếm.

Chữ Việt cổ này được tạo ra bởi 3 thành phần chiết tự. Chiết tự số 1 biểu tượng cho mặt trời, chiết tự số 2 biểu tượng cho thần long, cho loài rồng, còn chiết tự số 3 biểu tượng cho hình người chim tay cầm qua hay binh khí.



Mặt trời được gắn liền với văn hóa người Việt qua hình tượng trống đồng được lưu lại đến nay, các nhà nghiên cứu cùng chung kết luận rằng, phần trung tâm mặt trống là hình tượng của mặt trời đang phát ra tia sáng, liên quan đến việc phân chia “tiết khí” trong năm.




Hình tượng người trong trang phục gắn lông chim cầm cung hay dây côn rất phổ biến trên trống đồng, Trong lễ hội người Việt cổ, thường hóa trang thành người chim với biểu tượng là “cháu Tiên”, đây là phong tục nổi bật của người Việt cổ.


Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xăm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:
Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xăm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xăm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Hình ảnh: Tượng người Việt cổ tại bảo tàng Triết Giang Trung Quốc


Thoạt tiên mục đích xăm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.


Hình ảnh: Chữ Rồng




Như vậy  qua phân tích trên có thể thấy "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" cổ. Điều đó dù là vô tình hay cố ý của nhà Hán cũng đã khiến người Việt sau này cảm thấy hoang mang khi tìm hiểu về căn cước của mình. Hán sử đã không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.
Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng danh xưng "Việt" thì có khả năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công trong việc lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và là căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Các bạn thân mến. Bây giờ nếu có ai hỏi bạn Việt là gì thì hãy trả lời rằng: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là Tiên. Danh xưng Việt của dân tộc ta tự bản thân bên trong nội hàm đã chứa đựng những ý nghĩa lớn lao. Nó trùng khớp với những gì mà người Việt chúng ta vẫn luôn tự hào rằng mình là con Rồng cháu Tiên. Nó cũng phản ánh nền văn minh lúa nước rực rỡ xứ nóng phương Nam của tổ tiên ta trong quá khứ. Hy vọng với việc viết lại được tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với mong muốn trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.



Saturday, December 21, 2019

Uy đức sáng ngời của anh hùng dân tộc Việt Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Ngày xưa đế quốc Mông Cổ đã chiếm cả nửa thế giới. Vó ngựa chúng tới đâu thì cỏ không mọc được tới đó. Biết bao nhiêu thành quách, làng mạc, bao nhiêu dân tộc đã bị tiêu diệt hoàn toàn bởi các đạo quân Mông Công hung hãn và hiếu chiến khắp từ Á sang Âu. Vậy mà đế quốc đó đã gục ngã tới 3 lần khi đối đầu với quân đội Đại Việt của nhà Trần. Và trong đại chiến công hiển hách của thời đại Đông A đó thì nổi lên trên cả là tên tuổi của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin đi tìm hiểu về nhân vật xuất chúng này của dân tộc Việt Nam nhé. 


                                  Ảnh: Đế quốc Mông Cổ

Trần Hưng Đạo còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Ông có tên khai sinh là Trần Quốc Tuấn. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi tên đầy đủ và trang trọng hơn là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" dành cho ông. Cách gọi tên các danh nhân theo kiểu vắn tắt này là phổ biến dưới thời phong kiến ngày xưa. Cần lưu ý rằng "Hưng Đạo đại vương" là tước phong chính thức cao nhất do vua nhà Trần ban tặng cho Trần Quốc Tuấn lúc sinh thời do công lao trận mạc của ông. 
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. 
Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi nhân dân, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn. 
Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải… Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ cầm gậy thường khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước.

Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng… đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :… “Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương…”. Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc “đại bút”. 
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng  có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi  hiểm nguy để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:
– Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:
– Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

                                       Ảnh: Đền Kiếp Bạc

Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 ( tức năm1300) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ.
Khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương. 

Các bạn thân mến. Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận tụy đối với dân tộc Đại Việt, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong quốc gia thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu nước thương dân. Tư tưởng và uy vũ của ông là tấm gương sáng cho lớp con cháu dân tộc Việt Nam chúng ta ngày nay noi theo.

                  Ảnh: Nhân dân tưởng nhớ Trần Hưng Đạo


Wednesday, December 18, 2019

Kinh tộc Tam Đảo - Cộng đồng gốc Việt 500 năm tại Trung Quốc



Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Ba làng người "Trung Hoa gốc Việt " đang sinh sống phát triển trong nội địa Trung Quốc hiện nay không phải là một điều rất ít người biết như trước đây nữa.  Họ đã được công nhận là 1 trong 56 dân tộc chính thức tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.  Hình ảnh cô gái Kinh tộc xinh đẹp với cái nón lá hình chóp đã được tài liệu hay bích chương du lịch của Trung Hoa trưng lớn lên như mời mọc du khách quốc tế.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về dân tộc Kinh tam đảo, và lý do tại sao họ lại có mặt trên đất Trung Quốc hiện nay nhé.

Người Kinh Tam Đảo hay Kinh tộc Tam đảo là tên gọi đặc trưng được dùng để chỉ cộng đồng người Việt di cư theo đường biển từ miền duyên hải của Việt Nam vào đầu thế kỷ 16 đến định cư trên ba hòn đảo nhỏ là Vạn Vĩ , Vu Ðầu và Sơn Tâm lúc đầu vốn là hoang đảo, ngày nay là ba thôn thuộc địa phận thị trấn Giang Bình, huyện cấp thị Đông Hưngđịa cấp thị Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng TâyTrung Quốc , cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km. Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi "Kinh tộc Tam Đảo"  có nghĩa là "Ba hòn đảo của người Kinh", hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên. Ngày nay khu vực tam đảo đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền.
Trước đây thì cộng đồng dân tộc Kinh tam đảo có gốc gác từ Đồ Sơn, Hải Phòng di cư lên vùng đất phía Bắc Móng Cái từ thế kỷ thứ 16. Tại thời điểm đó, ba hòn đảo Sơn Tâm, Vu Đầu, Vạn Vĩ cũng như khu vực xung quanh vẫn thuộc Đại Việt với tên gọi Trường Bình. Họ vẫn làm ăn, buôn bán và mang dòng dõi Việt như thế cho đến khi Công ước Pháp - Thanh năm 1887 đã chuyển nhượng toàn bộ vùng đất này sang quyền quản lý của nhà Thanh.

Người Kinh nói tiếng Việt nhưng tiếng nói của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt. Về chữ viết, ngày nay họ sử dụng chữ Hán, song họ vẫn lưu truyền và dạy cho người trẻ chữ Nôm của người Việt. Những thế hệ mới đã làm quen với ký tự Latin thì có tổ chức dạy và học tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ  để có thể giao lưu với cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.

"Về ẩm thực, dân Kinh Việt ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn cá tôm cua. Ngày Tết, họ thích ăn xôi chè. Họ làm nước mắm cá để chấm và nêm thức ăn.
Một điểm lý thú là dân Kinh Việt thích ăn hai món sau, ăn hoài không ngán: Ðó là "bánh đa" bằng bột gạo có rắc mè nướng trên than hồng mà sách Tàu gọi là Phong xuy hỉ - bánh phồng do gió thổi! - và "bún riêu, bún ốc" mà sách Hán tự ghi là Hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.
"Nhà cửa của dân Kinh Việt thì thấp, làm bằng gỗ hay tre đan thành phên.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.
Về tang ma thì chôn dưới đất.
Trừ một thiểu số theo đạo Thiên chúa, phần lớn dân Kinh Việt theo Phật giáo, cúng vái đủ thứ thần thánh và sùng bái tổ tiên.

Dân tộc Kinh rất ưa thích lối hát đối đáp giao tình nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ngoài Bắc ta bây giờ.
Lối hát đúm hát đối này thường được dân Kinh long trọng diễn vào ngày Tết họ gọi là "Hát Tết
Tài liệu Hoa ngữ về Kinh tộc đã đặc biệt khen rằng: "Người Kinh trên phương diện sinh hoạt phấn đấu trường kỳ đã sáng tạo một nền văn hóa rực rỡ muôn màu, nội dung của nền văn học truyền khẩu thật phong phú, ca khúc và khúc điệu đạt đến 30 loại. Ðàn bầu là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Phê bình về âm nhạc và dân ca của Kinh tộc, sách Hoa ngữ nói rằng: "Lời ca thuần phác, khúc điệu bình dị ít biến hóa."

"Về phương diện nghệ thuật, tài liệu Anh ngữ nói thêm thật rõ về Kinh tộc như sau: "Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị , sáo trúc, trống, cồng và cây độc huyền cầm là cây đàn đặc thù của họ. Những truyện dân gian và cổ tích của họ rất nhiều. Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.


Các bạn thân mến. Đối với chúng ta, việc biết có một cộng đồng rất nhỏ khoảng 22,000 người Kinh sống ở Tam Đảo, Quảng Tây, Trung Quốc là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động
Nếu các bạn có dịp sang thăm Trung Quốc thì có thể ghé thăm khu làng cổ 500 năm tại Tam đảo của người Việt để có thể cảm nhận được một nét phảng phất của thời xa xưa, cũng như giao lưu với đồng bào tại đó.