Wednesday, December 18, 2019

Kinh tộc Tam Đảo - Cộng đồng gốc Việt 500 năm tại Trung Quốc



Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Ba làng người "Trung Hoa gốc Việt " đang sinh sống phát triển trong nội địa Trung Quốc hiện nay không phải là một điều rất ít người biết như trước đây nữa.  Họ đã được công nhận là 1 trong 56 dân tộc chính thức tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.  Hình ảnh cô gái Kinh tộc xinh đẹp với cái nón lá hình chóp đã được tài liệu hay bích chương du lịch của Trung Hoa trưng lớn lên như mời mọc du khách quốc tế.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về dân tộc Kinh tam đảo, và lý do tại sao họ lại có mặt trên đất Trung Quốc hiện nay nhé.

Người Kinh Tam Đảo hay Kinh tộc Tam đảo là tên gọi đặc trưng được dùng để chỉ cộng đồng người Việt di cư theo đường biển từ miền duyên hải của Việt Nam vào đầu thế kỷ 16 đến định cư trên ba hòn đảo nhỏ là Vạn Vĩ , Vu Ðầu và Sơn Tâm lúc đầu vốn là hoang đảo, ngày nay là ba thôn thuộc địa phận thị trấn Giang Bình, huyện cấp thị Đông Hưngđịa cấp thị Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng TâyTrung Quốc , cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km. Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi "Kinh tộc Tam Đảo"  có nghĩa là "Ba hòn đảo của người Kinh", hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên. Ngày nay khu vực tam đảo đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền.
Trước đây thì cộng đồng dân tộc Kinh tam đảo có gốc gác từ Đồ Sơn, Hải Phòng di cư lên vùng đất phía Bắc Móng Cái từ thế kỷ thứ 16. Tại thời điểm đó, ba hòn đảo Sơn Tâm, Vu Đầu, Vạn Vĩ cũng như khu vực xung quanh vẫn thuộc Đại Việt với tên gọi Trường Bình. Họ vẫn làm ăn, buôn bán và mang dòng dõi Việt như thế cho đến khi Công ước Pháp - Thanh năm 1887 đã chuyển nhượng toàn bộ vùng đất này sang quyền quản lý của nhà Thanh.

Người Kinh nói tiếng Việt nhưng tiếng nói của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt. Về chữ viết, ngày nay họ sử dụng chữ Hán, song họ vẫn lưu truyền và dạy cho người trẻ chữ Nôm của người Việt. Những thế hệ mới đã làm quen với ký tự Latin thì có tổ chức dạy và học tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ  để có thể giao lưu với cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.

"Về ẩm thực, dân Kinh Việt ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn cá tôm cua. Ngày Tết, họ thích ăn xôi chè. Họ làm nước mắm cá để chấm và nêm thức ăn.
Một điểm lý thú là dân Kinh Việt thích ăn hai món sau, ăn hoài không ngán: Ðó là "bánh đa" bằng bột gạo có rắc mè nướng trên than hồng mà sách Tàu gọi là Phong xuy hỉ - bánh phồng do gió thổi! - và "bún riêu, bún ốc" mà sách Hán tự ghi là Hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.
"Nhà cửa của dân Kinh Việt thì thấp, làm bằng gỗ hay tre đan thành phên.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.
Về tang ma thì chôn dưới đất.
Trừ một thiểu số theo đạo Thiên chúa, phần lớn dân Kinh Việt theo Phật giáo, cúng vái đủ thứ thần thánh và sùng bái tổ tiên.

Dân tộc Kinh rất ưa thích lối hát đối đáp giao tình nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ngoài Bắc ta bây giờ.
Lối hát đúm hát đối này thường được dân Kinh long trọng diễn vào ngày Tết họ gọi là "Hát Tết
Tài liệu Hoa ngữ về Kinh tộc đã đặc biệt khen rằng: "Người Kinh trên phương diện sinh hoạt phấn đấu trường kỳ đã sáng tạo một nền văn hóa rực rỡ muôn màu, nội dung của nền văn học truyền khẩu thật phong phú, ca khúc và khúc điệu đạt đến 30 loại. Ðàn bầu là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Phê bình về âm nhạc và dân ca của Kinh tộc, sách Hoa ngữ nói rằng: "Lời ca thuần phác, khúc điệu bình dị ít biến hóa."

"Về phương diện nghệ thuật, tài liệu Anh ngữ nói thêm thật rõ về Kinh tộc như sau: "Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị , sáo trúc, trống, cồng và cây độc huyền cầm là cây đàn đặc thù của họ. Những truyện dân gian và cổ tích của họ rất nhiều. Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.


Các bạn thân mến. Đối với chúng ta, việc biết có một cộng đồng rất nhỏ khoảng 22,000 người Kinh sống ở Tam Đảo, Quảng Tây, Trung Quốc là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động
Nếu các bạn có dịp sang thăm Trung Quốc thì có thể ghé thăm khu làng cổ 500 năm tại Tam đảo của người Việt để có thể cảm nhận được một nét phảng phất của thời xa xưa, cũng như giao lưu với đồng bào tại đó.


No comments:

Post a Comment