Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử
Sin TV. Các bạn thân mến. Ngày xưa đế quốc Mông Cổ đã chiếm cả nửa thế giới. Vó
ngựa chúng tới đâu thì cỏ không mọc được tới đó. Biết bao nhiêu thành quách,
làng mạc, bao nhiêu dân tộc đã bị tiêu diệt hoàn toàn bởi các đạo quân Mông
Công hung hãn và hiếu chiến khắp từ Á sang Âu. Vậy mà đế quốc đó đã gục ngã tới
3 lần khi đối đầu với quân đội Đại Việt của nhà Trần. Và trong đại chiến công
hiển hách của thời đại Đông A đó thì nổi lên trên cả là tên tuổi của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin đi
tìm hiểu về nhân vật xuất chúng này của dân tộc Việt Nam nhé.
Ảnh: Đế quốc Mông Cổ
Trần Hưng Đạo còn được gọi là Hưng Đạo Đại
Vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương là một nhà chính
trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt
Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Ông có tên khai sinh là Trần Quốc Tuấn.
Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi
vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi tên đầy đủ và trang trọng
hơn là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" dành cho ông. Cách gọi tên
các danh nhân theo kiểu vắn tắt này là phổ biến dưới thời phong kiến ngày xưa.
Cần lưu ý rằng "Hưng Đạo đại vương" là tước phong chính thức cao nhất do vua nhà Trần ban tặng cho Trần
Quốc Tuấn lúc sinh thời do công lao trận mạc của ông.
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ
Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ
Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành
bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua
cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà
Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh
ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang.
Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu
nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi
lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành
bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính
là Trần Quốc Tuấn.
Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc
Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất
chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm,
những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn
trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài.
Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi nhân dân, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù
riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành
cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc
Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai
chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần
Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự
thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên
hung hãn.
Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông
chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và
sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải… Rồi một lần khác, ông đem
việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp
ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do
các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng
bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử,
phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây
gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần
bịt sắt, chỉ cầm gậy thường khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt.
Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng
dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt
vì vua, vì nước.
Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc
Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão,
Yết Kiêu, Dã Tượng… đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính,
và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến
bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá
chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí
truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một
tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :… “Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau,
cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương…”. Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có
nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn
truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch
tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một
bậc “đại bút”.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân,
thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải
hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông
sẵn sàng xông pha vào nơi hiểm nguy để
đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của
ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì,
trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc
Tuấn đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến
thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:
– Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc
lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăng trối những lời cuối cùng, thật
thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:
– Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế
sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Ảnh: Đền Kiếp Bạc
Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý,
Hưng Long thứ 8 ( tức năm1300) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương
qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn
trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất
san phẳng, trồng cây như cũ.
Khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo
đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông
thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng
phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương.
Các bạn thân mến. Có thể
nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận
tụy đối với dân tộc Đại Việt, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong quốc gia
thành một lực lượng thống nhất, là tinh thần yêu nước thương dân. Tư tưởng và
uy vũ của ông là tấm gương sáng cho lớp con cháu dân tộc Việt Nam chúng ta ngày
nay noi theo.
Ảnh: Nhân dân tưởng nhớ Trần Hưng Đạo
No comments:
Post a Comment