Monday, December 23, 2019

Giải mã ý nghĩa danh xưng Việt đầy thiêng liêng của dân tộc ta


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Mỗi một dân tộc trên thế giới đều có lòng tự tôn về tên gọi của dân tộc mình. Có khi nào các bạn thắc mắc tại sao chúng ta lại có danh xưng là dân tộc Việt hay không ?

Hôm nay chúng ta hãy thử cùng nhau lý giải về tên dân tộc ta nhé !

Nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu ý nghĩa từ “Việt” qua chữ Hán , chữ này bao gồm chữ “tẩu” (tức là chạy) bên trái và chữ “qua” (tức là giáo mác, búa, chiến tranh) bên phải cấu thành. Từ đó có người cho rằng chữ Việt có nghĩa là người Việt phải chạy về phía nam để tránh bị người Hoa Hạ đồng hóa.
Hình ảnh: Chữ Việt trong Hán tự




Thế nhưng theo các truyền thuyết mà tổ tiên ta truyền lại thì người Việt vốn tự hào mình là con rồng cháu tiên, rất nhiều câu chuyện từ xa xưa đều gắn với điều này. Vì thế hàm nghĩa của chữ “Việt” chắc chắn không thể đơn giản như thế được. Để hiểu được chữ “Việt” mang ý nghĩa gì thì phải tìm đến chữ “Việt” của người Việt cổ, chứ không thể qua chữ Hán được.
Chữ Việt cổ  đã xuất hiện trước cả chữ Hán. Khi Lưu Bang lập ra nhà Hán vào năm 202 trước công nguyên đã tiêu chuẩn thống nhất hóa chữ viết của mình và gọi là chữ Hán, đồng thời bắt các nước chư hầu khác phải dùng theo. Còn trước đó các dân tộc đều có chữ viết của mình. Người Việt chúng ta cũng không phải ngoại lệ.
Các cuộc khai quật tại tỉnh Hà Nam (thuộc Trung Quốc ngày nay) đã phát hiện nhiều di tích đồ đồng từ thời nhà Thương (1600 đến 1046  trước công nguyên). Hà Nam chính là đất Ân thời nhà Thương. Trong sử Việt có câu chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân, chính là nhà Thương vào thời đấy. Các cuộc khai quật tìm thấy nhiều chữ viết trong đó có chữ “Việt” cổ.




Chữ “Việt” cổ cũng đã được tìm thấy trên thanh bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn

Năm 1965 khi khai quật khu mộ cổ ở tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc), các nhà khảo cổ học đã tìm được thanh bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn, thanh bảo kiếm này hoàn toàn không bị hoen gỉ, còn như mới suốt 2500 năm qua; không chỉ thanh kiếm còn nguyên vẹn, mà thậm chí từng hoa văn chữ viết trên đó vẫn còn rất rõ ràng.


Hình ảnh: Bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn

Nước Việt thời Câu Tiễn (trị vì từ năm 496 đến 465 trước công nguyên) là của thị tộc người Ư Việt – một trong những thị tộc thuộc nhóm Bách Việt.
Chữ viết được khắc trên thanh kiếm này không phải là chữ Hán, các nhà khảo cổ học xác định đây là loại chữ còn có trước cả chữ Hán. Thanh kiếm được khắc 8 chữ là“Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm”. 



Đặc biệt chữ “Việt” trên thanh bảo kiếm này không có trong chữ Hán, cũng như không có trong bất kỳ bộ từ điển nào nhưng hoàn toàn trùng khớp với chữ “Việt” cổ được khai quật tại tỉnh Hà Nam Trung Quốc trong các đồ vật có niên đại từ thời nhà Ân Thương.

So sánh chữ “Việt”trên kiếm của Việt Vương Câu Tiễn và di tích chữ “Việt” khai quật được là trùng khớp nhau. Như vậy đây rất có thể là chữ Việt Cổ mà chúng ta đang tìm kiếm.

Chữ Việt cổ này được tạo ra bởi 3 thành phần chiết tự. Chiết tự số 1 biểu tượng cho mặt trời, chiết tự số 2 biểu tượng cho thần long, cho loài rồng, còn chiết tự số 3 biểu tượng cho hình người chim tay cầm qua hay binh khí.



Mặt trời được gắn liền với văn hóa người Việt qua hình tượng trống đồng được lưu lại đến nay, các nhà nghiên cứu cùng chung kết luận rằng, phần trung tâm mặt trống là hình tượng của mặt trời đang phát ra tia sáng, liên quan đến việc phân chia “tiết khí” trong năm.




Hình tượng người trong trang phục gắn lông chim cầm cung hay dây côn rất phổ biến trên trống đồng, Trong lễ hội người Việt cổ, thường hóa trang thành người chim với biểu tượng là “cháu Tiên”, đây là phong tục nổi bật của người Việt cổ.


Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xăm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:
Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xăm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xăm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Hình ảnh: Tượng người Việt cổ tại bảo tàng Triết Giang Trung Quốc


Thoạt tiên mục đích xăm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.


Hình ảnh: Chữ Rồng




Như vậy  qua phân tích trên có thể thấy "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" cổ. Điều đó dù là vô tình hay cố ý của nhà Hán cũng đã khiến người Việt sau này cảm thấy hoang mang khi tìm hiểu về căn cước của mình. Hán sử đã không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.
Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng danh xưng "Việt" thì có khả năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công trong việc lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và là căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Các bạn thân mến. Bây giờ nếu có ai hỏi bạn Việt là gì thì hãy trả lời rằng: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là Tiên. Danh xưng Việt của dân tộc ta tự bản thân bên trong nội hàm đã chứa đựng những ý nghĩa lớn lao. Nó trùng khớp với những gì mà người Việt chúng ta vẫn luôn tự hào rằng mình là con Rồng cháu Tiên. Nó cũng phản ánh nền văn minh lúa nước rực rỡ xứ nóng phương Nam của tổ tiên ta trong quá khứ. Hy vọng với việc viết lại được tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với mong muốn trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.



No comments:

Post a Comment