Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Với những ai yêu thích các tác phẩm kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung thì sẽ đều
biết đến tác phẩm nổi tiếng Thiên Long Bát Bộ. Trong tác phẩm đó có nói về Lục
Mạch Thần Kiếm là một môn võ công tuyệt kỹ bí truyền của Hoàng gia Đại Lý. Đoàn
Dự đã từng dùng Lục Mạch Thần Kiếm búng ngón tay từ xa mà làm thanh đao của Mộ
Dung Phục gãy vụn từng mảnh. Ấy vậy mà môn võ công cái thế đó lại không thể
giúp vương quốc Đại Lý chiến thắng được vương quốc Đại Cồ Việt của ông cha
chúng ta ngày xưa.
Thực hư câu chuyện đó như thế nào thì xin mời các bạn hãy cùng kênh Thái
Tử Sin TV hôm nay đi tìm hiểu nhé.
Vương quốc Đại Lý là một
vương quốc của người Bạch đã từng
tồn tại từ năm 937 cho đến năm 1253, nằm trong khu vực mà ngày nay là tỉnh Vân Nam, Quý Châu và tây nam tỉnh Tứ Xuyên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và một phần phía tây của Bắc Bộ Việt Nam.
Vương quốc Đại Lý là sự kế tiếp của quốc
gia Nam Chiếu, là một quốc
gia đã suy tàn từ năm 902. Có ba triều đại kế tiếp
nhau là Đại Trường Hòa, Đại Thiên Hưng và Đại Nghĩa Ninh đã
tồn tại sau khi Nam Chiếu bị suy vong cho đến khi Đoàn Tư Bình chiếm được quyền
hành năm 937 và thiết lập ra vương quốc Đại Lý. (2)
Trong thời kỳ Nam Chiếu, nước
này liên tục tổ chức những cuộc chinh phạt mở rộng lãnh thổ ra các hướng. Nhiều
lần quân Nam Chiếu đã đánh vào đất Giao Châu là tên lãnh thổ nước ta và một phần
Quảng Tây thời Bắc thuộc, khiến quân nhà Đường phải nhiều phen vất vả mới đánh
lui nổi. Đến thế kỷ thứ 11, nước Đại Lý nổi lên như một thế lực hùng mạnh trong
khu vực với nền nghệ thuật, tôn giáo, thương mại phát triển và quân sự cũng khá
mạnh, đủ khiến các nước lân bang như Thổ Phồn, Pagan, Tống… đều phải dè chừng.(3)
Mâu thuẫn giữa Đại Cồ Việt và nước Đại
Lý bắt nguồn từ việc tranh giành ảnh hưởng ở vùng mà ngày nay là Tây Bắc nước
Việt Nam. Vào khoảng thế kỷ thứ 11, vùng này là nơi sinh sống chủ yếu của người
Tày, người Nùng, người Thái. Thời bấy giờ, người Việt và người Tống thường gọi
chung các sắc dân vùng biên giới giữa hai nước là người Man, hoặc người Lý,
người Lão. Nằm giữa ba trung tâm quyền lực mạnh là Đại Cồ Việt, Đại Lý và nhà
Tống, các tù trưởng trong vùng phải lựa chọn cho mình một phe để thần phục.
Biên giới giữa Đại Cồ Việt, Đại Lý, và Tống cũng chưa được định hình rõ ràng mà
liên tục co duỗi, phụ thuộc vào tiềm lực và khả năng thu phục các tù trưởng
người dân tộc thiểu số của các bên.(4)
Trước khi vương triều Lý thành lập, kinh đô
nước Đại Cồ Việt đặt tại Hoa Lư. Theo đó, trung tâm nước ta cũng là vùng ven
biển phía Đông đồng bằng sông Hồng. Lúc này nước Đại Cồ Việt vẫn đang trong
thời kỳ quá độ từ phong kiến tản quyền lên nhà nước trung ương tập quyền, xu hướng
ly khai của các thế lực cát cứ địa phương, các nhóm sắc tộc vẫn còn rất lớn.
Các vua thường phải bận đi đánh dẹp liên miên trong nước. Do đó, việc cai trị ở
các miền biên viễn phía Tây Bắc có phần lơi lỏng. Các tù trưởng ở các châu Vị
Long (thuộc Chiêm Hóa, Tuyên Quang ngày nay), châu Đô Kim (thuộc Hàm Yên, Tuyên
Quang ngày nay), châu Bình Nguyên (thuộc Hà Giang ngày nay)… nắm quyền tự trị
rất cao, tùy tiện quản lý địa hạt theo ý mình. Nhân đó, người Đại Lý thường
xuyên xuất hiện trong các vùng ảnh hưởng của Đại Cồ Việt để trao đổi, buôn bán
mà không thông qua triều đình nước ta. Nhiều phần đất ở vùng Tây Bắc dần dần
trở thành vùng ảnh hưởng của nước Đại Lý trên thực tế. (5)
Đến khi Lý Thái Tổ, tức vua Lý Công Uẩn
lên ngôi, việc triều chính có nhiều biến chuyển mới. Thế nước Đại Cồ Việt dâng
cao với kinh đô mới và một quân đội được tổ chức bài bản, chặt chẽ hơn trước.
Việc trao các trọng trách về quân sự cho các thân vương, hoàng tử đã giúp vua
Lý Thái Tổ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát quân đội, ngăn ngừa nguy cơ phản
loạn. Mệnh lệnh của vua được thông suốt từ trên xuống dưới. Bên cạnh đó, quân
Đại Cồ Việt vốn thường xuyên phải đánh
dẹp các lực lượng phản loạn trong nước và đánh giặc ngoại xâm nên rất thiện
chiến. Với sức mạnh và vị thế mới, triều đình Đại Cồ Việt không còn dễ dãi
trong vấn đề biên giới như trước mà đã có những hành động cứng rắn đối với các
tù trưởng khinh nhờn triều đình và cả người Đại Lý tự tiện xâm nhập vào vùng
ảnh hưởng của mình. (6)
Vào cuối năm 1012, Lý Thái Tổ được tin người
Đại Lý đem ngựa đến buôn bán ở bến Kim Hoa, châu Vị Long rất đông đúc dưới sự
bảo trợ của tù trưởng Hà Trắc Tuấn mà không xin phép triều đình Đại Cồ Việt. Để
thể hiện uy quyền của triều đình, vua sai quân đến đánh bắt các thương nhân và
tùy tùng người Đại Lý, tịch thu đến 1 vạn con ngựa. Sự kiện này ngoài việc thể
hiện quyết tâm bảo vệ vùng ảnh hưởng của nước Đại Cồ Việt, còn là một sự thách
thức công khai đối với nước Đại Lý. Thông điệp của vua Lý Thái Tổ rất rõ ràng,
rằng nước Đại Cồ Việt có đã đủ sức mạnh và quyết tâm để thẳng thừng đối đầu với
Đại Lý, nhằm bảo vệ đất đai và chủ quyền của mình.(7)
Nước Đại Lý thời bấy giờ dưới sự cai trị
của vua Tuyên Túc đế Đoàn Tố Liêm đang trong thời kỳ hưng thịnh, tất nhiên
không dễ dàng bỏ qua chuyện này. Vua Đại Lý ngay sau đó đã chuẩn bị cho việc
trả đũa. Năm 1013, tù trưởng châu Vị Long là Hà Trắc Tuấn vì muốn được thoải
mái ngả về phe Đại Lý, đã khởi binh chống lại triều đình nhà Lý. Không bỏ qua
cơ hội này, vua Đại Lý đã điều động binh mã, ước hẹn liên thủ với Hà Trắc Tuấn,
mưu đồ tách châu Vị Long ra khỏi lãnh thổ Đại Cồ Việt để nhập vào đất của Đại
Lý, đồng thời lấy Vị Long làm chỗ đứng chân mà chiếm thêm các châu khác ở vùng
Tây Bắc nước Đại Cồ Việt. (8)
Trước tình hình đó, vua Lý Thái Tổ đã quyết
định thân chinh để đánh Hà Trắc Tuấn trước khi quân Đại Lý kịp tiến sang. Hà
Trắc Tuấn quân ít không thể địch nổi quân đội của Lý Thái Tổ, nên dẫn quân
tránh vào núi, ngầm cho người đi kêu gọi dân các tộc người Tày, Nùng, Thái
quanh vùng cùng đứng lên chống lại triều đình nhà Lý.
Không thể đóng quân lâu dài nơi rừng núi, Lý
Thái Tổ quyết định rút quân về đồng bằng dưỡng sức, chuẩn bị cho những biến cố
về sau. Quả nhiên sau đó không lâu, quân giặc mạnh đã đến. Tháng giêng năm
1014, quân Đại Lý do các tướng Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí rầm rộ tiến
sang, chính thức mở màn cuộc xâm lược nước Đại Cồ Việt. (9)
Theo sử cũ là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
đoàn quân này đông đến 20 vạn người. Nhưng theo sách An Nam Chí Lược dẫn lời
thư của vua Lý Thái Tổ gửi cho nước Tống thì quân Đại Lý chỉ có 3 vạn người.
Vậy đâu là con số đáng tin?
Nếu tính theo tỷ lệ thông thường thời kỳ
này là khoảng 3-4 dân phu cho một người lính viễn chinh, có thể suy ra quân số
thực của Đại Lý là khoảng 4-5 vạn quân chiến đấu, 15-16 vạn dân phu. Trong
thành phần đội quân Đại Lý, ngoài người Đại Lý có 3 vạn, còn có số quân liên
minh người Tày, Nùng, Thái… chiếm khoảng 1-2 vạn quân. Con số này phù hợp với
tính chất của cuộc chiến là đánh lấn đất ngoài biên giới, mở rộng vùng ảnh
hưởng và cướp bóc chứ không phải một cuộc chiến tổng lực nhằm thôn tính toàn bộ
nước Đại Cồ Việt. (10)
Thế mạnh của quân Đại Lý nằm ở chỗ họ có rất
nhiều ngựa chiến, tức là có nhiều kỵ binh, cùng với nguồn hậu cần dồi dào.
Nguyên nước Đại Lý thời kỳ đó là vương quốc buôn bán ngựa nổi danh trong khu
vực. Ngựa Đại Lý được cho là tốt nhất trong các nước phương Nam. Ngoài các lợi
thế trên, quân Đại Lý còn có được sự ủng hộ của không ít dân Tày, Nùng, Thái
trong vùng nhờ vào các mối quan hệ buôn bán trước đó và sự gần gũi về phong
tục, ngôn ngữ. (11)
Khi thấy giặc tiến sang, châu mục Bình
Nguyên (thuộc Hà Giang ngày nay) là Hoàng Ân Vinh cho người chạy trạm cấp báo
về thành Thăng Long. Lý Thái Tổ, tức vua Lý Công Uẩn được tin, bèn phái Dực
Thánh Vương là vị hoàng tử thứ năm của nhà vua cầm hàng vạn quân đi đánh giặc.
Quân Đại Cồ Việt có lợi thế lớn ở tượng binh, bộ binh thì dũng cảm và có nhiều
kinh nghiệm trận mạc. Kỵ binh nước ta trước đó ít và yếu hơn nước Đại Lý, nhưng
đã được tăng cường đáng kể nhờ vào nguồn ngựa bắt được từ chính những thương
nhân Đại Lý vào năm 1012. (12)
Quân Đại Lý tiến quân đóng ở bến Kim Hoa,
châu Vị Long, lập doanh trại gọi là trại Ngũ Hoa để chờ quân Đại Cồ Việt đến.
Quân Đại Lý không cần tiến nhanh như gió bão, mà chỉ mong chiếm cứ lấy phần đất
biên giới. Việc quân Đại Lý đóng trại không tiến cùng với sự đồng tình của một
bộ phận không nhỏ dân cư vùng biên viễn đã phần nào tăng thêm khó khăn cho quân
Đại Cồ Việt. Giặc tuy là quân đi xâm lấn, nhưng lại giữ được thế nhàn. Quân ta
là bên giữ đất nhưng trở thành kẻ phải chịu nhọc. Điều này đặt ra cho quân Đại
Cồ Việt hai lựa chọn: một là phải chủ động tiến đánh quân Đại Lý lúc này đang ở
thế thủ chờ sẵn, hai là chấp nhận mất đất vào tay Đại Lý.(13)
Dực Thánh Vương kéo quân đến Vị Long,
không ngần ngại cho quân tấn công vào trại quân Đại Lý. Đoàn Kính Chí, Dương
Trường Huệ cũng dàn quân ra ứng chiến. Hai bên đánh nhau một trận rất lớn. Quân
Đại Lý dù có kỵ binh mạnh nhưng không chống nổi voi ngựa, cung nỏ của quân Đại
Cồ Việt, phải tháo chạy. Dực Thánh Vương thúc quân truy kích, bắt sống được
tướng Dương Trường Huệ, chém hàng vạn quân Đại Lý. Đoàn Kính Chí cùng đám tàn
quân và dân phu bỏ chạy thục mạng về nước, để lại hàng vạn ngựa chiến, vô số
khí giới, lương thực. Tất cả đều trở
thành chiến lợi phẩm cho nước Đại Cồ Việt.(14)
Sau trận đại thắng, vua Lý Thái Tổ liền sai
viên ngoại lang Phùng Chân cùng Lý Thạc đi sứ sang Tống, tặng 100 con ngựa
chiến và báo tin thắng trận cho nước Tống biết. Việc ngoại giao này vừa để thể
hiện thiện chí, vừa tỏ rõ cho người Tống thấy sự hùng cường của nước Đại Cồ
Việt mà thôi không nhòm ngó. Ngoài ra, cũng là để gián tiếp kiềm chế nước Đại
Lý bởi vì ngoài Đại Cồ Việt thì nước Tống cũng là thế lực mà Đại Lý phải đề
phòng. Nước Đại Lý vừa hao binh tổn tướng vừa lại phải đề phòng nhà Tống nền từ
đó phải sắp đặt quân đội chuyển sang thế thủ chứ không thể nghĩ đến việc trả
đũa. (15)
Tống Chân Tông biết tin Đại Cồ Việt đánh
thắng Đại Lý, lòng vừa phục vừa ái ngại. Để đáp lễ, vua Tống hết mực khoản đãi
sứ giả. Từ lúc vào địa giới Tống cho đến kinh thành Khai Phong, phía Tống đài
thọ tất cả chi phí. Khi sứ bộ Phùng Chân vào chầu, vua Tống ban nhiều mũ, đai,
đồ dùng, lụa là tùy theo thứ bậc từng người. Sau việc đi sứ này, quan hệ Đại Cồ
Việt và nhà Tống trở nên êm thắm một thời gian, phần vì thiện chí của vua ta,
phần vì nước Tống đã biết uy lực nước Đại Cồ Việt vẫn hùng mạnh sau cuộc đổi
ngôi. Không như trước đó, Tống Chân Tông vẫn hục hặc với nhà Lý vì cho rằng Lý
Thái Tổ là kẻ cướp ngôi. (16)
Sau trận chiến này, người Đại Lý không còn
dám bén mảng đến vùng biên thùy nước Đại Cồ Việt nữa. Thừa thế thắng, vương
triều nhà Lý cố gắng thiết lập lại nền cai trị chặt chẽ hơn đối với vùng Tây
Bắc. Những tù trưởng người Di Lão muốn ly khai khỏi Đại Cồ Việt mất đi thế lực
chống lưng trở nên yếu ớt, một số đành chấp nhận quy phục, một số khác cố gắng
liên kết lại để phản kháng đều bị triều đình nhà Lý điều quân đi đánh dẹp. (17)
Năm 1015, liên minh các bộ lạc do tù
trưởng Hà Trắc Tuấn nổi lên ở các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình
Nguyên, quyết trận sống mái với triều Lý hòng lập nên một cõi giang sơn riêng.
Vua Lý Thái Tổ sai hai hoàng tử là Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương dẫn quân đi
đánh. Hà Trắc Tuấn binh ít thế cô không thể địch nổi. Quân đội nhà Lý đánh tan
tác đạo quân phản loạn, bắt sống Hà Trắc Tuấn giải về kinh đô Thăng Long, chém
đầu bêu ở cửa Đông thành. (18)
Các bạn thân mến. Cuộc chiến với nước Đại Lý
tuy sử liệu còn ít ỏi và ít được nhắc đến trong sử sách hiện đại, nhưng cũng
đóng vai trò quan trọng trong việc định hình nên lãnh thổ nước Việt Nam hiện
tại. Nhờ vào chiến thắng trước quân Đại Lý, nhà nước quân chủ của người Việt đã
tiến thêm một bước trong việc kiểm soát lãnh thổ vùng Tây Bắc, góp phần đưa các
sắc dân nơi đây vào một quỹ đạo chung của triều đình Thăng Long.
Chiến công này là một trong những nền tảng
đầu tiên, cùng với những biện pháp hôn nhân, phủ dụ của các đời vua Lý về sau
nữa giúp nước Đại Cồ Việt dần có được một vùng biên giới Tây Bắc yên ổn để từ
đó huy động sức người sức của vào các cuộc chiến chống ngoại xâm. Khi quân giặc
từ phương Bắc tiến sang, vùng Tây Bắc trở thành một vùng đệm che chở cho trung
châu nước Việt.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu
các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video
mới nhất nhé.
Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các
chương trình lần sau ! (19)
No comments:
Post a Comment