Chào mừng các bạn
đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận
phía Nam sông Dương Tử , tới khu vực Hồ Động Đình thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của
Trung Quốc ngày nay. Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết
mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.
Có một số người không tin rằng lãnh thổ trước đây của
người Việt cổ từng rộng lớn như vậy. Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV
đi tìm hiểu về vấn đề này nhé !
Theo Lĩnh Nam Chích
Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế
Minh , cháu 3 đời của Thần Nông sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần
thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm
bé Lộc Tục đã rất thông minh và đoan chính.
Tổ Thần Nông của người Việt
Đế Minh rất ngạc
nhiên trước tư chất tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế
nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.
Cuối
cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc,
và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo
trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc
cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền
thì chết dưới đao thương”.
Từ đấy phía Bắc sông
Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc
Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN, và đặt
quốc hiệu là Xích Quỷ. Biên giới phía
Bắc tới Hồ Động Đình , phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba
Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Lãnh thổ Việt Cổ
Như vậy theo sự phân
chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Hồ Động Đình , bao gồm cả các tỉnh của Trung Quốc ngày nay
như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam.
Nếu tính diện tích
thì Bắc giáp Hồ Động Đình vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh
tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng
diện tích của nước Xích Quỷ vào khoảng 2.900.000 km2.
Khi vua Kinh Dương
Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, rồi lại truyền ngôi cho Hùng
Vương và lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn
toàn.
Cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng vào năm 40 đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh
thổ nước Việt cổ.
Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm
của mình đã đánh đuổi quân Hán đến tận Hồ Động Đình, một nữ
tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với
Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần
triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến
cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”
Khi
giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn
khu hồ Động Đình , nay thuộc thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Năm
1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ
Nam có ghi chép trận đánh Hồ Động Đình như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục
ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem
quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện,
Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại.
Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi
Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí
bốc lên tới trời”.
Giáo sư Trần Đại Sỹ
từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và
quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam , nhưng
không ai còn nhớ Vua Bà là ai.
Khi ông đến đến Côn
Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân
gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân
Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường
giang và Ô giang.”
Giáo sư Trần Đại Sỹ
đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại
đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà.
Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ
cho biết vua Bà là người nổi lên chống quan tham thời nhà Hán, cả vùng đó đều có đạo
thờ Vua Bà.
Miếu thờ có rất nhiều
câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối
này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu
có câu đối rằng:
Khẳng khái, phù
Trưng, thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua
Trưng, ngặt nỗi thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có
câu đối:
Giang thượng tam anh
phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường
giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho
thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Hồ Động Đình (phía Nam
sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).
Hồ Động Đình
Trải qua ngàn năm Bắc
thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc,
khiến khu vực phía Bắc, người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Trong bài viết có tựa
đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn
đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư
Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp –
Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới
nhiều luận điểm khẳng định biên giới Việt cổ nằm ở hồ Động Đình. Những
luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực
địa, trong đó nổi bật là các điều sau
Điều thứ 1 – Núi Ngũ
lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ
Nam, Trung Quốc. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc
tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương
đài, cánh đồng Tương.
Hồ Động Đình
Điều thứ 2 – Thiên
đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh
này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai
Bà Trưng và trận chiến ở Hồ Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn
tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư
viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh
Dương.
Điều thứ 3 – Cánh
đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần
là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là
vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình,
Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là
vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ
giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy,
Thạch Khê Thủy.
Sông Tương Giang
Cùng với một số luận
điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đã đi đến kết luận rằng:
Biên giới cổ của nước
Việt, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới
hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Các bạn thân mến. Năm
938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các
vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải,
Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này
dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn
1/10 so với trước đây.
Chương trình hôm nay
đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông
để nhận được các video mới nhất nhé !
No comments:
Post a Comment