Friday, February 21, 2020

Người Tiều ( Triều Châu) – Nhóm người Hoa có thiên phú làm kinh doanh tại Việt Nam.


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Chắc hẳn trong số các quý vị khán giả có người đã từng nghe hay biến đến ca khúc người đến từ Triều Châu. Vậy có khi nào các bạn thắc mắc người Triều Châu là ai mà có cả một ca khúc viết riêng về họ như vậy.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về nhóm người Triều Châu với lịch sử và nét văn hóa cũng rất đặc sắc này nhé ! (1)
Triều Châu  là một thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Triều Châu giáp Sán Đầu phía nam, Yết Dương phía tây nam, Mai Châu phía tây bắc, tỉnh Phúc Kiến ở phía đông và biển Đông ở phía đông nam. (2)
Người Tiều hay còn gọi là người Triều Châu, là một bộ phận người Hoa xuất xứ từ Triều Châu, Trung Quốc, đến định cư sinh sống ở Việt Nam. Người Tiều chiếm số đông trong cộng đồng di dân gốc Trung Hoa. Người Hoa Triều Châu tập trung sinh sống đông đúc ở Chợ Lớn, ngoài ra còn tập trung sinh sống ở Trà VinhSóc TrăngBạc LiêuKiên Giang.
Trên toàn thế giới, người Tiều hiện nay có dân số khoảng 25 triệu và có mặt tại hơn 40 quốc gia. (3)
Theo tư liệu, người Hoa di cư đến vùng đất Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ thứ 17. Khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều, người Hoa sinh sống ở Việt Nam có tất cả là 7 bang. Trong đó có 1 bang của người Tiều bên cạnh 6 bang khác là: Quảng Triệu (còn gọi là Bang Quảng Đông), Khách giaPhước KiếnPhước ChâuHải Nam và Quỳnh Châu. (4)
Người Tiều thường mang họ Trần, Trương, Lý, Lâm, Mã, Quách, Tạ, Trầm, Nhiêu. Người Tiều ở Nam bộ sống chan hòa với cộng đồng người Kinh và Khmer. Họ hòa nhập cùng các lễ tục của cộng đồng nhưng vẫn giữ nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình. (5)
Doanh nhân người Tiều rất giỏi làm giàu nên thành đạt và đóng góp tài lực dồi dào cho xã hội. Có thời, những ngai “vua” trong các ngành nghề kinh doanh ở Chợ Lớn đều do người Hoa Triều Châu nắm giữ. (6)
Người Tiều có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Tiều. Người Tiều nói riêng cùng với cộng đồng người Hoa kiều nói chung có nền văn hóa nghệ thuật phát triển rất phong phú, đặc sắc, mang đậm nét Trung Hoa truyền thống. Trong đó, hát Tiều là thể loại ca kịch độc đáo vẫn được bảo tồn, phát triển. (7)
Ẩm thực của người Tiều phong phú và đặc sắc với nhiều món ăn đã thành danh và được cả người Kinh và Khmer yêu chuộng như xá bấuphá lấucháo Tiềuhủ tiếu Hồchè hột gà nấu đường. (8)
Người Tiều cũng như các cộng đồng người Hoa khác có các hội quán, không chỉ là nơi có ý nghĩa về tín ngưỡng mà còn là nơi sinh hoạt gặp gỡ của cộng đồng. Trong số đó phải kể đến như Hội quán Triều Châu hay còn gọi là chùa Âm Bổn tại Hội An được Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845, làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng khi đến Hội An sinh sống; Nghĩa An Hội Quán hay còn gọi là chùa Ông, nằm tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là nơi chiêm bái của người Hoa gốc Triều Châu ở vùng Sài Gòn, mà còn là một công trình có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật ở nửa cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 (9)
Một số người Hoa Triều Châu nổi tiếng như Quách Đàm  là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây. (10)
Hay như ca sĩ Trường Vũ tên thật là Huỳnh Văn Ngoảnh là một nam ca sĩ hải ngoại người Mỹ gốc Việt nổi tiếng về dòng nhạc vàng Việt Nam. (11)
Về nguồn gốc của người Triều Châu tại Trung Quốc thì vẫn còn là giả thuyết.
Lịch sử ghi lại như sau: Tần Thủy Hoàng được sinh ra tại Hàm Đan, là con của một nữ nhân Triệu Quốc, tên là Triệu Cơ. Ông và mẹ từng bị người Triệu truy đuổi sau khi cha ông là con tin Dị Nhân bỏ trốn cùng Lã Bất Vi. (12)
Sau khi Tần Thủy Hoàng thôn tính xong nước Triệu, dân Triệu phản đối quyết liệt khi bị cưỡng bức đi xây dựng Vạn Lí Trường Thành. Không những thế họ còn dè bỉu nguồn gốc vua Tần và bịa chuyện vua Tần thực ra là con của Lã Bất Vi. Sẵn ác cảm cũ, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đàn áp giết hại dân Triệu rất dữ. (13)
Năm 214 TCN, Đồ Thư được lệnh mộ binh và dân ô hợp nam tiến, rất nhiều người Triệu đã bị đày ải theo đoàn quân xâm lăng Bách Việt.  (14)
Sau khi Đồ Thư bị giết, Triệu Đà cát cứ Phiên Ngung lập nước Nam Việt, một nhóm lớn người Triệu đi đến một vùng hoang vu thuộc Mân Việt và quần tụ sinh sống ở đấy cho đến ngày nay. Có thể người Triều Châu đã lai với người Mân Việt rất nhiều, nhưng xếp họ vào nhóm Mân là không đúng. (15)
Là cư dân hạn canh, người Triều Châu như cách họ tự gọi mình sau này, mau chóng chuyển đổi qua trồng lúa thủy canh nơi đất mới, thổ nhưỡng mới. Các nông gia Triều Châu vẫn giữ truyền thống xa xưa từ lưu vực sông Hoàng Hà. Khi làm đồng họ luôn đeo bên thắt lưng một bầu nước gạn từ nồi cơm sôi. Họ dùng nó để giải khát, tinh bột hoà trong đó còn giúp họ chống lại hiện tượng hạ đường huyết khi lao động mệt nhọc. (16)
Đến thời Đường, người Phúc Kiến nhiều lần lấn át dân Triều Châu, cướp đất của người Triều Châu đã khai phá. Do đó phong tục Triều Châu từ đó cấm tất cả các cuộc hôn nhân Triều Châu – Phúc Kiến. (17)
Các bạn thân mến. Doanh nhân người Tiều rất giỏi làm giàu nên thành đạt và đóng góp tài lực dồi dào cho xã hội. Chịu chơi và chơi đẹp là lẽ sống của họ. Người Hoa Triều Châu không chịu làm công lệ thuộc người khác mà thích lập thân làm chủ sản nghiệp dù nhỏ hay lớn, kiếm được ít hay nhiều tiền. Dân Tiều cũng tỏ ra có năng khiếu thiên phú trong nghề buôn bán.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (18)

Sunday, February 16, 2020

Bồn Man – Vương quốc cổ từng nằm trong lãnh thổ Đại Việt hơn 300 năm


Bồn Man – Vương quốc cổ từng nằm trong lãnh thổ Đại Việt hơn 300 năm
Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Bồn Man là một quốc gia cổ từng tồn tại ở khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, một phần các tỉnh Hủa Phăn đến Khăm Muộn, ở phía Đông nước Lào, và một phần các tỉnh miền Bắc Trung bộ Việt Nam. Vùng đất này từng bị chi phối, tranh giành bởi nhiều quốc gia lân cận như Đại ViệtLan XangXiêm La và ngày nay thuộc lãnh thổ Lào. Vùng này từng nằm dưới sự cai trị của Đại Việt từ thời vua Lê Nhân Tông với tên gọi là Trấn Ninh thuộc xứ Nghệ An.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về vương quốc cổ từng thuộc Việt Nam trong hơn 300 năm này nhé ! (1)
Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan đã di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến Ai Lao. Vào khoảng cuối thế kỷ 13 họ đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở cánh đồng Chum trên cao nguyên Xiêng Khoảng. (2)
Tiểu quốc Bồn Man của Tai Phuan được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh - Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú. (3)
Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang, phía Đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man được hợp nhất vào Lan Xang dưới thời vua Phà Ngừm.
Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm cai trị, với thủ đô là Xiêng Khoảng, dân số ước chừng 9 vạn hộ. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ phải cống nạp thuế cho Lan Xang (4)
Tháng 7, mùa thu năm 1448. Bồn Man xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông. Triều đình đem đất của Bồn Man đặt làm châu Quy Hợp  xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Cầm đời đời làm Phụ đạo. (5)
Năm 1478, Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man liên kết với Lan Xang đem binh quấy nhiễu châu Quy Hợp. Vua Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ VựcTrịnh Công Lệ  đánh quân Bồn Man và Lan Xang. Quân Đại Việt chia làm 5 đạo từ Nghệ AnThanh HóaHưng Hóa đã đánh thắng và đuổi quân địch tới tận lưu vực sông Mê Kông giáp với Miến Điện ngày nay. (6)
Theo Việt Nam sử lược thì sau khi Cầm Công bị giết, vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập lãnh thổ Bồn Man vào Đại Việt, đặt tên là Phủ Trấn Ninh và giao cho một người họ hàng của Cầm Công là Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt các quan cai trị như trước.  (7)
Vào năm 1735-1739 thời Lê Ý Tông, Trấn Ninh  bị một hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật chiếm cứ. Tù trưởng Trấn Ninh là Cầm Hương bị bắt giam . Trịnh Sâm đã điều quân sang đánh dẹp Lê Duy Mật, lập lại Trấn Ninh và giao cho cháu Cầm Hương là Cầm Uẩn làm tù trưởng. Đến cuối thế kỷ 18 vương quốc Xiêm La đã hình thành và lớn mạnh, Trấn Ninh lại trở thành một chư hầu của Xiêm, nhưng vẫn triều cống Đại Việt. (8)
Thời nhà Tây Sơn , các tù trưởng Trấn Ninh, theo Xiêm La và Vạn Tượng chống lại nhà Tây Sơn. Năm 1791, Trần Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng Thiệu KiểuThiệu Đế của Trấn Ninh. (9)
Thời nhà Nguyễn,vua  Gia Long đem đất Trấn Ninh cắt về cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ. Sự việc này được chép ngắn gọn trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:
Trấn Ninh: Đất Bồn Man xưa, hồi đầu triều Lê, họ Cầm nối nhau làm phụ đạo; đến Lê Thánh Tông chia đất này lập ra làm phủ Trấn Ninh, quản lãnh 7 huyện: Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Minh, Minh Quảng, Quang Lang và Tư Thuận, cho họ Cầm nối đời làm tù trưởng. Cuối năm Vĩnh Hựu (niên hiệu Lê Ý Tông 1735-1739), Lê Duy Mật chiếm cứ, đến năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770) mới dẹp yên được, lại cho họ Cầm được nối đời quản trị. Bản Triều, năm Gia Long thứ nhất (1802) đem đất ấy phong cho nước Vạn tượng. (10)
Như vậy sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, chỉ vì Gia Long muốn lôi kéo vương quốc Vạn Tượng nên tự cắt đất chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm. (11)
Khi Chiêu Xanh, tù trưởng Trấn Ninh chết, A Nỗ không lập con Chiêu Xanh là Chiêu Nội lên.Vì vậy Chiêu Nội thù A Nỗ, rồi sau đó chạy sang phủ Trà Lân xứ Nghệ để xin nội thuộc lại Đại Nam dưới thời vua Ming Mạng. (12)
Đại Nam Thực Lục ghi lại sự kiện vương quốc Vạn Tượng diệt vong và Minh Mạng ra lệnh lấy lại phủ Trấn Ninh như sau:
Trấn Ninh vốn là bờ cõi cũ của ta, xưa đức Tiên đế đem cho Vạn Tượng, không tính đến tiết nhỏ. Nay A Nỗ xiêu dạt, tù trưởng đất ấy không có chỗ nương tựa, lại đem đất ấy dâng ta, thế là ta không mất một mũi tên mà được người xa thần phục, kinh lược như thế là có tiếng giỏi. Vả lại đất ấy hiểm yếu, đời Lê trước Lê Duy Mật chiếm giữ hơn 30 năm, nhà Lê không làm gì được, hình thế vững chắc như thế đấy. Nay lại về ta, thực đủ san phẳng sào huyệt của kẻ gian mà thêm phên giậu mạnh cho nước nhà” (13)
Đến khi A Nỗ chống lại nước Xiêm, bị vua Xiêm là Rama III sai Chao Phraya Bodin Decha đánh cho thua chạy sang Nghệ An, qua Trấn Ninh bị Chiêu Nội bắt nộp cho Xiêm năm 1828. Chiêu Nội bị vua Minh Mạng khép tội chết vì hành động này.
Sau khi giết Chiêu Nộinhà Nguyễn cử quan Việt sang cai trị Trấn Ninh. Năm 1823, nhà Nguyễn đặt thêm huyện Liêm (14)
Tháng 3/1832, nổ ra cuộc khởi nghĩa của hơn 200 binh lính Trấn Ninh, do Trần Tứ và Đỗ Bắc lãnh đạo, nổi dậy chống nhà Nguyễn và liên kết với cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương. Những năm 1833-1834, trong chiến tranh Việt-Xiêmngười Thái tấn công Đại Nam, một trong các hướng là qua ngả Trấn Ninh. Đất Trấn Ninh bị người Thái lấn dần. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm 1893, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh  Hủa Phăn và Xiêng Khoảng trước thuộc Trấn Ninh của Đại Việt giao về lãnh thổ Lào.
Các bạn thân mến. Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (15)



Thursday, February 13, 2020

Người phát minh ra giấy đầu tiên là người Việt, không phải người Hán



Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến.
Sự phát minh ra giấy viết là một sự kiện lớn trong lịch sử loài người. Từ khi có giấy, sự kế thừa và truyền bá kiến thức tiến vào thời đại hoàn toàn mới. Giấy ngày nay đã trở nên quá đỗi thông dụng và phổ biến. Nó hiện diện trên mọi mặt của cuộc sống, nhưng nguồn gốc của giấy thì lại không nhiều người thực sự biết tới. Hầu như mọi người đều cho rằng, đó là một phát minh của người Trung Quốc có tên là Thái Luân, với đoạn sử được ghi lại trong Hậu Hán Thư. Nhưng ngày nay lại có những bằng chứng chứng minh rằng phát minh giấy có nguồn gốc từ phương Nam, cụ thể là từ người Việt cổ, hay người Bách Việt trong cổ sử Trung Hoa ghi lại.
Vậy thực hư câu chuyện này là như thế nào. Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu nhé.  (1)
Học giả Trung Quốc Quan Mẫn trong bài nghiên cứu về “‘Tứ đại phát minh’ của Trung Quốc có tên là: Liều thuốc độc của phép thắng lợi tinh thần”  đã nói về việc Trung Quốc “nhận bừa” những phát minh của nhân loại làm của riêng mình như: thuốc nổ, kim chỉ nam, thuật in ấn, làm giấy.  Quan Mẫn khẳng định: “Người Trung Quốc vốn kiêu căng cho rằng Trung Quốc là nơi phát minh sớm nhất”.
Trong phần nói về phát minh ra giấy, Quan Mẫn viết “tại Trung Quốc được biết vào thời nhà Hán có xuất hiện giấy, nhưng không tìm được thư tịch gì của thời đại đó lưu lại” (2)
Nhưng hiện nay thật may mắn cho người Việt Nam khi chúng ta có thể lần lại được dấu tích trong tập cổ sử Bách Việt Tiên Hiền Chí (百越) rút ra trong đại bộ dã sử Lĩnh Nam Di Thư () do Âu Đại Nhậm biên soạn vào năm 1554 triều Minh. Bộ sách này gồm 4 quyển, giới thiệu 108 bậc tiên hiền Bách Việt đã phát hiện ra các nghề làm giấy, rèn kim loại, dệt tơ lụa,… ở thế kỷ thứ 2 sau CN. Nhưng sau này người Hán Trung Quốc vốn là dân du mục háo chiến từ phương Bắc tràn xuống xâm lăng thôn tính đất đai của các dân Bách Việt. Đồng thời chiếm đoạt luôn các nền văn hóa bản địa của Bách Việt, tự coi như chính mình đã phát minh ra. (3)
Âu Đại Nhậm, thuộc gốc Bách Việt ở Phúc Kiến, người ở huyện Thuận Đức tỉnh Quảng Đông, tên chữ là Trịnh Bá làm quan lớn thời Gia Tĩnh triều Minh (năm 1522). Huyện Thuận Đức là một huyện thuộc phủ Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông do nhà Minh lập ra.
Âu Đại Nhậm đã từng giữ chức vụ huấn đạo Giang Tô, học chánh Quảng Châu rồi về triều làm quan ở Quốc Tử Giám, và cuối cùng là họ bộ lang trung ở Nam Kinh. “Phần lớn cuộc đời làm quan của ông là ở đất Bách Việt cũ, nên ông có nhiều cơ hội tìm hiểu, sưu tập những chứng tích về tiên hiền Bách Việt” . (4)
Người Hán Trung Quốc vốn là dân du mục đến từ cao nguyên Phía Bắc. Dân du mục sống nay đây mai đó, chuyên nghề chinh chiến và chăn nuôi. Họ cần đồng cỏ để chăn nuôi gia súc. Họ đi chiếm các vùng đất của các bộ lạc khác, giết hết đàn ông và con trai, bắt đàn bà con gái về làm vợ và làm tôi tớ, chiếm đất cướp của. Khi tài nguyên cạn kiệt, họ nhổ trại đưa đàn súc vật đi chiếm vùng đất khác. Lối sống này đã thấm vào máu huyết họ từ đời này qua đời khác. Lịch sử Trung Quốc cho thấy họ là dân tộc chuyên đi chiếm đoạt lãnh thổ và văn hóa người khác. Từ thời cổ đại đến nay, lịch sử Trung Quốc đã chứng minh việc ấy. (5)
Còn nói về giống dân  Bách Việt thì họ là các tộc người đồng chủng, đồng văn hóa. Ngày nay, các nhà nghiên cứu văn hóa thế giới và Việt Nam cũng đã chứng minh tính thống nhất của văn hóa Bách Việt. Vùng sinh sống của các tộc người Việt cổ trải dài từ miền Nam Trung Quốc ngày nay tới miền Bắc Việt Nam. Vùng ảnh hưởng văn hóa thì còn rộng hơn thế, họ được cho là những người thuần hóa lúa nước đầu tiên, cũng như phát triển kỹ thuật luyện đồng, họ cũng được cho rằng có một nền văn minh tinh thần và tri thức phát triển, tuy nhiên do điều kiện lịch sử, nên những dấu tích đó hầu như đã biến mất, hoặc thay tên đổi chủ, chúng ta chỉ còn thấy lại những di sản vật chất thông qua khảo cổ. (6)
Quay lại vấn đề chính, thì người Trung Quốc gắn phát minh giấy của mình cho Thái Luân , một vị quan triều Hán, nhưng sách “Bách Việt tiên hiền chí” của tác giả Âu Đại Nhậm, viết thời Minh, lại kể tên Thái Luân trong số các tiên hiền Bách Việt làm quan và đóng góp cho các triều đại Hoa Hán, sách cũng đã kể lại chi tiết về cuộc đời ông. Quê ông ở Quế Dương, thị xã Sầm Châu, tỉnh Hồ Nam. Tỉnh Hồ Nam nằm ở phía Nam, sát biên giới bắc 2 tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông (7)
Vùng này nằm trong địa bàn Bách Việt bị nhà Hán chiếm, sau đó Hai bà Trưng khởi nghĩa đòi lại được trong thời gian ngắn. Rất có thể ông đã kế thừa và phát triển kỹ thuật làm giấy của người Việt, để tạo ra loại giấy mà nhà Hán hay các triều đại sau này sử dụng. (8)
Chuyện kể rằng, Trương Hoa (232-300) đã soạn cuốn Bác Vật Chí dâng lên Vũ Đế. Công trình gồm 400 quyển được rút lại còn 10 quyển. Hoàng đế ban cho Trương Hoa đồ dùng để chép lại công trình: một thỏi mực bằng đá Khotan, một cây bút cán bằng sừng kỳ lân đến từ nước Liêu Tây và một vạn tờ giấy Trắc Ly Chỉ (tức giấy Gân Nghiêng) đến từ Nam Việt. Người phương Nam làm giấy bằng rong. Gân của nó dọc và ngang đều chạy nghiêng, vì vậy mà có tên đó. (9)

Còn Nam Phương Thảo Mộc Trạng của Kê Hàm, soạn năm 30 có ghi:
“Mật hương chỉ ( tức giấy mật hương) làm bằng vỏ và lá của thứ cây có mùi mật. Giấy màu nâu. Nó có những vân hình trứng cá. Giấy rất thơm, bền và mềm. Khi thấm mực nó không bị mủn. Năm Thái Khang thứ 5 (đời Tấn, năm 284) sứ bộ La Mã dâng đến 30.000 tờ. Hoàng đế ban cho Đỗ Dự là Bình Nam tướng quân và Đan Dương hầu 10.000 tờ để viết Xuân thu thích lệ và Kinh truyện tập giải dâng lên vua. Nhưng Đỗ dự chết trước khi giấy được gởi đến. Theo chỉ dụ, giấy đó được ban cho gia đình”. (10)
Lễ vật của sứ bộ và nhà buôn La Mã đem đến không phải xuất xứ từ đế quốc La Mã mà đến từ bán đảo Đông Dương (Hậu Hán thư nói rõ, phái bộ đến từ Nhật Nam, tức là Việt Nam khi bị nhà Hán chiếm và chia tách thành Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam). (11)
Có thể thấy giấy gân nghiêng và giấy mật hương đều được tạo nên bằng những loại cây có nguồn gốc từ phương Nam, và nó đã được sản xuất ở số lượng lớn, chứng tỏ rằng khi đó người Việt đã ổn định kỹ thuật sản xuất, và có thể tổ chức sản xuất quy mô. Đây là bằng chứng rất quan trọng để chứng minh người Việt đã có thể sản xuất ra giấy.  Theo Gs.Ts Jean-Pierre Drège, Viện Viễn Đông Bác Cổ, thì giấy có thể có nguồn gốc từ phương Nam, và có thể lùi về thế kỷ 1, thậm chí thế kỷ 2 TCN. Ông cho rằng Thái Luân có thể chỉ kế thừa và cải tiến kỹ thuật làm giấy của người Việt. (12)
Có giả thuyết cho rằng người Việt đã chuyển sang sử dụng chữ tượng thanh ghi trên giấy, nên khi bị thất truyền, không được sử dụng trong thời gian dài, thì con chữ đó gần như cũng biến mất luôn, hầu như không thể tìm lại dấu tích. Khảo cổ của chúng ta rất khó khăn trong việc tìm lại dấu tích về chữ viết của người Việt cổ. Thông qua việc chứng minh giấy là của người Việt này,tôi cho rằng nhận định này hoàn toàn có cơ sở, người Việt có thể đã chuyển hẳn sang sử dụng giấy, nên không thể giữ gìn cho đến ngày hôm nay. (13)
Dân tộc Hán thời xưa chỉ sinh sống ở phía  Bắc sông Hoàng Hà. Từ phía Nam sông Hoàng Hà là địa bàn dân Bách Việt mà người Hán coi thường gọi là giống dân “man di” không văn minh . Hồ Nam là vùng đất trũng nhiều ao hồ và sông nước thích hợp cho việc trồng lúa nước, và các loại cây nhiệt đới như cây đay gai… Nguyên liệu làm giấy mà Thái Luân dùng chính là “vỏ cây đay gai, vải vụn nát, lưới cá rách”. (14)
 Người Hán sống ở phía Bắc sông Hoàng Hà toàn là đất cao nguyên khô cạn chỉ thích hợp cho dân du mục, chăn nuôi và săn bắn. Trung Quốc vốn là dân du mục háo chiến, bạo lực đã tràn xuống miền Nam tiêu diệt hay Hán hóa các bộ tộc khác và chiếm luôn nền văn hóa bản địa trong đó có nghề làm giấy của người Việt mà sau này Thái Luân đã kế thừa và phát triển. (15)
Nhà bác học Đức Albert Einstein khi bình luận về nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã kết luận: không có chuyện khoa học cổ đại Trung Quốc đi trước. Có nghĩa là những phát minh giấy, thuốc nổ, kim chỉ nam, y học cổ truyền,… đều không phải của người Trung Quốc sáng tạo như họ đã tuyên bố. Và nếu có phát minh ra các thứ gì tại đất Trung Quốc xưa thì cũng không phải do dân Hoa Hán du mục mà do các dân Bách Việt nông nghiệp phía Nam sông Hoàng Hà sáng tạo ra như trường hợp Thái Luân phát minh ra giấy.  (16)
Các bạn thân mến. Ngày nay hơn bao giờ hết, trước những thách thức vô cùng to lớn, người Việt Nam chúng ta cần ôn lại lịch sử hào hùng của Tiên Hiền Bách Việt ngày xưa. Người Việt Nam chúng ta hiện là dân tộc duy nhất trong khối Bách Việt vẫn giữ được độc lập và danh xưng của mình. Hay nói cách khác chúng ta chính là khối kết tinh vững chắc nhất của khối Bách Việt, đại diện xứng đáng cho nền văn minh Châu Á cổ xưa vĩ đại.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhất nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau ! (17)


Friday, February 7, 2020

Lý Quốc Sư – Đức thánh Nguyễn, ông tổ nghề đúc đồng và nghề Đông y Việt Nam.


Chào mừng các bạn đang đến với kênh Thái Tử Sin TV. Các bạn thân mến. Trong thời nhà Lý, quốc gia Đại Việt thế nước hùng cường, nhân tài nở rộ. Mà một trong số những nhân vật nổi tiếng của thời kỳ đó phải kể đến tên của ngài Lý Quốc Sư.
Hôm nay các bạn hãy cùng kênh Thái Tử Sin TV đi tìm hiểu về nhân vật xuất chúng đã được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn này nhé.
Lý Quốc Sư (1065 – 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp lý cao nhất của một vị thiền sư. Ông từng là dược sư, pháp sư, đại sư rồi trở thành quốc sư với tên hiệu Nguyễn Minh Không. Ông là một vị cao tăng đứng đầu tổ chức Phật giáo của triều đại nhà Lý trong lịch sử, là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam, được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng và cũng là ông tổ nghề Đông y Việt Nam.
Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo, là những nhân vật lịch sử có thật, sau này được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn, đức thánh Trần và ông được hậu thế thờ ở rất nhiều đền, đình, và cả trong chùa theo kiểu tiền Phật hậu Thánh.
Theo "Thiền Uyển tập anh", Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên húy là Nguyễn Chí Thành (阮志誠) sinh tại làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là làng Điền Xá, xã Gia ThắngGia ViễnNinh Bình). Theo một số tài liệu, ông còn có đạo hiệu Không Lộ, từng tu ở chùa Không Lộ (Nam Định) và được thờ ở núi Không Lộ (chùa Thầy ngày nay).
Cha của Đức thánh Nguyễn là ông Nguyễn Sùng, quê ở làng Điềm Xá, phủ Tràng An. Mẹ ông là bà Dương Thị Mỹ, quê ở Phả Lại, phủ Từ Sơn nay là làng Phả Lại, xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh (nơi giáp với phường Phả Lạithị xã Chí LinhHải Dương). Vợ chồng ông Nguyễn Sùng tuy nghèo nhưng luôn chăm lo làm việc thiện. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành.
Cha mẹ mất sớm, Nguyễn Chí Thành và người bạn Trương Bá Ngọc làm ngư dân đánh bắt cá, sinh sống trên sông Hoàng Long. Hai người cùng nuôi chí lớn, đi chu du thiên hạ, lúc thì đăng sơn kích thỏ, khi thì phóng thủy cầu ngư.
Nguyễn Chí Thành lớn lên sang Tây Trúc học đạo cùng với Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Giác Hải là hai vị chân sư có uy tín đương thời. Khi tu hành đắc đạo, Nguyễn Chí Thành trở về quê nhà dựng chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở vùng châu thổ sông Hồng... để tu hành, lấy vị hiệu là Không Lộ rồi Minh Không. Trong suốt cuộc đời, trên cương vị quốc sư thống lĩnh lực lượng Phật giáo quốc gia, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi chùa trên đất Đại Việt. Nhiều ngôi chùa lớn còn tồn tại đến ngày nay như: chùa Bái Đínhchùa Cổ Lễchùa Non Nước (Ninh Bình), chùa Địch Lộngchùa Quỳnh Lâmchùa Am Tiênchùa Trôngchùa Kim Liên, chùa Hàm Long,... Quốc sư Minh Không là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam.
Thiền sư Minh Không đồng thời là một dược sư nổi tiếng thời Lý, một trong những kỳ tích của ông được sử sách ghi lại là chữa thành công bệnh “ hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được phong làm Quốc sư.
Nguyễn Minh Không được các làng nghề đúc đồng suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng, mặc dù từ thế kỷ 10, Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử và trước đó người Việt cổ đã đúc trống đồng. Với vai trò là Quốc sư triều Lý, ông tham gia gây dựng nhiều công trình Phật giáo. Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm; đúc đỉnh đồng trên tháp Báo Thiên] góp phần tạo nên An Nam tứ đại khí là những báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt thời Lý - Trần. Ông là người sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng.
Đầu năm 1118 Nguyễn Minh Không đến chùa Tống Xá (nay ở xã Yên Xá huyện Ý Yên), Nam Định, đã đi thăm các cánh đồng ở đây và thấy có một khu đất rộng, có loại đất sét tốt có thể làm khuôn đúc ở đây. Ông bèn hướng dẫn dân làng nghề đúc đồng. Từ đó cánh đồng có hố đào để lấy đất sét được gọi là cánh đồng Hố, từ thời Lê bắc thêm cầu nên gọi là cánh đồng Cầu Hố. Ngày nay ở thôn Tống Xá có đền thờ ông tổ của nghề đúc đồng Việt Nam Nguyễn Minh Không.
Là một thiền sư giỏi về Phật pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý, là ông tổ của nghề đúc đồng... Nguyễn Minh Không được tôn là đức Thánh Nguyễn bên cạnh chức danh Quốc sư triều Lý. Dân gian có câu:
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh.
Trong hai câu ca trên thì Vương chỉ Đinh Tiên Hoàng, Thánh chỉ Nguyễn Minh Không. Hai ông được sinh ra ở hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia ViễnNinh Bình.
Trong tín ngưỡng Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng có 4 vị thần trong nhóm Tứ bất tử đó là Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa. Tuy nhiên, thực tế các vị thánh trong Tứ bất tử từng được ghi chép còn có Lý Quốc Sư.
·         Kiều Oánh Mậu người làng Đường Lâm là học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục có viết:
"Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản ViênPhù ĐổngChử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào"
Các bạn thân mến. Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh lẫy lừng. Ông đã được coi là thần y khi chữa bệnh "hóa hổ" cho vua Lý Thần Tông và được ban quốc tính họ Lý, phong làm Quốc sư, được nhà vua cấp cho nhà ở, được miễn thuế má. Khi ông mất rồi được rất nhiều đền chùa thờ phụng. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: "Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả." Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của Phật giáo hưng thịnh thời Lý - là thầy thuốc tài ba bậc nhất, là thiền sư tài cao đức trọng, là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam.
Chương trình hôm nay đến đây là tạm dừng. Nếu các bạn thấy hay thì hãy đăng ký, chia sẻ và bấm chuông để nhận được các video mới nhé. Xin chào và hẹn gặp lại các bạn trong các chương trình lần sau !